LẬP LÁ SỐ TỬ VI

LÁ SỐ TỬ VI LÀ GÌ?

Lá số tử vi là một phương pháp dự đoán tương lai được sử dụng trong nhiều nền văn hóa châu Á, trong đó có Việt Nam. Lá số tử vi được xem là một phần của khoa học tâm linh và thường được sử dụng để đoán trước vận mệnh tương lai. Nhờ vậy mà bạn có thể nhận được các lời khuyên về sự nghiệp, tình yêu, gia đạo, sức khỏe và tài chính.

Để lập lá số tử vi cũng rất đơn giản. Bạn chỉ cần nhập đầy đủ, chính xác thông tin thời điểm sinh (năm, tháng, ngày, giờ) và giới tính của bạn vào vùng "Nhập thông tin" ở bên trên, sau đó nhấn vào nút bấm "lấy lá số" để lấy ảnh lá số và lời gợi ý luận giải tự động của nhóm Tử Vi Cổ Học.

  • Facebook: https://www.facebook.com/tuvi.cohoc.net
  • Email: Tuvancohoc@gmail.com
  • SĐT/Zalo: 0817.505.493
QR Code Zalo Tử Vi Cổ Học

GIỚI THIỆU VỀ BỘ MÔN TỬ VI ĐẨU SỐ

Tử Vi Đẩu Số cùng với Tứ Trụ là hai đại môn phái của mệnh lí học truyền thống Trung Quốc. Tử Vi Đẩu Số được xếp vào vị trí thứ nhất trong “Ngũ đại thần số” (năm môn thuật số lớn), gọi là “Thiên hạ đệ nhất thần số”.

Tử Vi Đẩu Số mang sắc thái thần bí của vũ trụ quan Đạo gia, đồng thời cũng rất chú trọng hoàn cảnh xã hội và ý nghĩa sâu xa của mối quan hệ xã hội của con người. Nó xuất phát từ quan niệm “Thiên Nhân hợp nhất” (thiên nhiên và con người hợp nhất) và thuyết âm dương ngũ hành, kết hợp với môn tinh tượng cổ đại, căn cứ vào hoàn cảnh không - thời gian tại thời điểm nào đó sinh ra để diễn thành mệnh bàn, liên hệ với các hào quẻ trong sách Chu Dịch, để dự đoán về khuynh hướng mệnh vận cũng như cát hung họa phúc của một đời người.

Tử vi đẩu số là một môn Chiêm tinh học, nghiên cứu sự ứng hợp giữa các tinh tú trong vũ trụ với con người.

Tử vi 紫微 = chòm sao Tử vi

Đẩu = Sao (tinh đẩu)

Số = Số mệnh

Vào khoảng thời kì Bắc Tống (北宋, 960-1127), một nhân vật quan trọng của Đạo gia là Trần Đoàn (Trần Hi Di) đã sáng tạo nên Tử Vi Đẩu Số, mà tiền thân của nó là Thập Bát Phi Tinh, và chịu ảnh hưởng của thuật chiêm tinh Ấn Độ. Trần Đoàn người đất Hoa Sơn, ngày nay về phía Nam huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc là người có học thức uyên bác, hiệu là Phù Dao Tử, tinh thông dịch học, chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tư tưởng Đạo gia. Ông đã tổng kết Đạo pháp nội đan, trước tác gồm có Dịch long đồ, Tiên thiên đồ, Vô cực đồ, là tiên phong trong trào lưu về phương pháp tu luyện của Đạo gia từ đời Tống trở về sau, có sức ảnh hưởng to lớn vào thời ấy và hậu thế. Người đời sau gọi ông là Hi Di Lão Tổ.

ĐẶC ĐIỂM CỦA BỘ MÔN TỬ VI ĐẨU SỐ

Xuất phát điểm của khoa học mệnh lí Tử Vi Đẩu Số là quan niệm “Thiên nhân hợp nhất” (Thiên nhiên và con người là một) và học thuyết âm dương ngũ hành, trên cơ sở trình tự luận đoán mệnh lí thông thường, kết hợp với những đặc điểm, địa vị tôn quý hay thấp hèn của các cát tinh (sao lành), hung tinh (sao dữ), hóa tinh (sao hóa) trong khu vực chòm sao Tử vi thuộc chính cung nằm chính giữa vùng trời phía bắc, cùng quy luật vận động xuôi ngược của chúng đối với trái đất, từ đó xem lại những hàm nghĩa mệnh lí khác nhau, do đó mà Tử Vi Đẩu Số có những đặc điểm và phương pháp của riêng mình.

Phương pháp cơ bản của Tử Vi Đẩu Số là căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh để định ra cung mệnh, căn cứ vào đó để luận đoán về địa vị, nhân cách, tình trạng giàu nghèo, lành dữ trong một đời người, sau đó lần lượt định ra các cung: Huynh đệ (anh chị em), Phu thê (vợ chồng), Tử tức (con cái), Tài bạch (của cải), Tật ách (bệnh tật), Thiên di (di dời, xuất ngoại), Nô bộc (giao hữu, bạn bè cấp dưới), Quan lộc (công việc, sự nghiệp), Điền trạch (nhà cửa-ruộng vườn), Phúc đức (họ hàng, tổ tiên), Phụ mẫu (cha mẹ) để bày ra mệnh bàn. Sau đó, quan sát tổ hợp các sao ở mỗi cung để luận đoán mệnh lí đẩu số của chúng. Sau cùng, thông quan tứ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị để tìm hiểu về các xu hướng biến hóa.

Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA TỬ VI ĐẨU SỐ

Là lí luận quan trọng của mệnh lí học truyền thống Trung Quốc, Tử Vi Đẩu Số không phải tồn tại độc lập, mà là một hệ thống mệnh lí hoàn chính dung nạp rất nhiều khái niệm hạt nhân của nền văn hóa và triết học Trung Quốc. Học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành, lí luận Thiên can Địa chi của thời cổ đại, thậm chí cả thuật chiêm tinh có nguồn gốc từ Ấn Độ, đều được tổng hợp hài hòa trong Tử Vi Đẩu Số, làm cho Tử Vi Đẩu Số có một nội hàm văn hóa vô cùng phong phú.

Tử Vi Đẩu Số vận dụng học thuyết Ngũ hành ngay từ lúc bắt đầu lập mệnh bàn, thiết lập cục số ngũ hành và cục số ngũ hành nạp âm, đồng thời trong quá trình giải đoán mệnh bàn và luận đoán mệnh lí luôn kết hợp mật thiết với quy luật sinh khắc của ngũ hành, vận dung một cách linh hoạt học thuyết ngũ hành thời cổ đại.

Trong thuật Tử Vi Đẩu Số, lí luận Can chi của một mặt thông qua năm, tháng, ngày, giờ sinh để xác lập vị trí của 12 cung, mặt khác còn quyết định bố cục của các sao, nên có thể nói rằng, lí luận can chi có ảnh hưởng mang tính quyết định trên toàn bộ mệnh bàn.

CẤU TRÚC LÁ SỐ TỬ VI

Cung chức

Cung vốn là thuật ngữ của thiên văn học, dùng để chỉ vị trí mười hai lần tụ hội của mặt trăng và mặt trời trong quỹ đạo vận hành của mặt trăng và mặt trời trong một năm. Tử Vi đã dùng thuật ngữ này để chỉ những nội dung chủ yếu mà đời người phải trải qua, cùng với những nhân tố chủ yếu liên quan đến vận mệnh của con người. Mỗi một yếu tố trong mệnh bàn đều có một vị trí khác nhau tùy theo từng người.

Phần trung tâm lá số

Trung tâm lá số là các thông tin về bạn, bao gồm ngày tháng năm sinh âm lịch và dương lịch, bản mệnh của bạn, ngũ hành của bản mệnh, tương quan về âm dương và mệnh cục của bạn.

Ý NGHĨA CÁC CUNG NHÂN BÀN KHÁC

Các thành phần trong 1 ô của lá số: Dưới đây là hình ảnh mô tả cấu trúc một cung trong lá số tử vi.

Chúng ta có thể nhận thấy các thành phần:

CÁC KHÁI NIỆN CƠ BẢN

1. Tinh, Diệu và Đẩu

Hai chữ Tinh và Diệu đều có nghĩa là: (ngôi) SAO. Còn Đẩu là chỉ chòm sao Nam Đẩu hay chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao Bắc Đẩu này có 7 ngôi sao nên thường gọi là Thất Tinh Bắc Đẩu (thực tế nó có 9 ngôi sao, gồm cả Tả Phù và Hữu Bật ở 2 bên, nhưng vì 2 sao này khó thấy nên được coi là trợ tinh cho 7 ngôi chính trong chòm), chòm sao Nam Đẩu thì có 6 ngôi nên gọi là Nam Đẩu Lục Tinh. Vào khoa TVĐS, thì Đẩu được gán dùng gần như là riêng cho sao Tử Vi, ngoài ra nó còn được dùng để phân chia tính chất thuộc Nam Đẩu, Bắc Đẩu cho một số sao.

Cần phân biệt khi nào thì người ta dùng chữ Tinh còn khi nào thì dùng chữ Diệu:

- Tinh, được dùng chỉ các Sao nói chung, hơn trăm sao của khoa TVĐS đều có thể gọi là Tinh. Như:

+ Chính Tinh = Chính Diệu = 14 sao của 2 vòng Tử Vi, Thiên Phủ.

+ Phụ Tinh = tất cả các sao còn lại trừ 14 sao thuộc Chính Tinh.

+ Lục cát tinh = 6 sao phò trợ có tính tốt lành nổi bật (Khôi, Việt, Xương, Khúc, Tả, Hữu).

+ Lục sát tinh = 6 sao có tính hung sát nổi bật (Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp). Trong đó thuật ngữ “Tứ Sát” được dùng phổ biến hơn gồm Kình, Đà, Linh, Hỏa.

+ Tứ Hóa tinh = 4 sao Lộc, Quyền, Khoa, Kị.

Về sự phân chia thứ/cấp bậc, một số sách Tàu (theo xuất phát từ đại tông sư Trương Khai Quyển) còn chia ra thành:

Giáp cấp tinh = các sao cấp một, cấp cao nhất, có tính quan trọng tác động mạnh mẽ nhất, gồm có 30 sao kể trên và 2 sao Lộc Tồn + Thiên Mã.

Ất cấp tinh = các sao cấp hai, gồm Thai - Tọa, Quang - Quý, Long - Phượng, Phụ - Cáo, Quan - Phúc, Tài - Thọ, Hồng - Hỉ, Giải Thần và Hình - Diêu, Thương - Sứ, Khốc - Hư, Cô - Quả,...

Bính cấp tinh = các sao cấp ba, gồm các sao của: vòng Bác Sĩ + vòng Tràng Sinh.

Đinh cấp tinh = các sao cấp bốn, gồm các sao vòng Tướng Tinh.

Mậu cấp tinh = các sao cấp năm, gồm các sao của vòng Thái Tuế.

Giới thiệu qua cách phân chia của Tàu để chúng ta khi đọc sách có thể hiểu rõ về thuật ngữ của họ, từ đó mà lần ra manh mối trong một số chiêu thức họ dùng. Chứ đối với Tử Vi Việt thì không phân chia rõ cấp độ Giáp Ất gì cả, vì một số sao cấp bét re như Tang, Tuế, Điếu nhiều khi còn có tác dụng mạnh, có tín hiệu thông tin rõ rệt hơn cả chính tinh tọa thủ.

- Diệu, từ này chỉ dùng chủ yếu cho 14 Chính Tinh và Tứ Hóa tinh và một vài sao quan trọng (thuộc nhóm sao cấp một) mà có thể phân định Miếu, Vượng, Đắc, Hãm, theo vị trí tọa thủ của chúng. Ta thường thấy các thuật ngữ như: Chính Diệu, Hóa Diệu, Sát Diệu, Tạp Diệu. Những sao thuộc cấp hai trở đi thì không được kể gọi là Diệu. Bởi vì 14 Chính Tinh được gọi là các Chính Diệu, cho nên cung nào mà không có Chính Diệu tọa thủ thì cung đó được gọi là Vô Chính Diệu.

2. Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm

Là những thuật ngữ được dùng chỉ nơi (cung) mà các sao tọa thủ, đồng thời cũng là nơi mà các sao phát huy được những tính chất tích cực cát lợi hay tiêu cực hung họa của chúng.

Một số trường phái dùng độ sáng của sao để mà giảng nghĩa về các thuật ngữ này, khá hình tượng và dễ hiểu: Khi một sao nào đó có được vị trí thuận lợi nhất, góc độ chiếu ánh sáng tốt nhất, thời gian phù hợp nhất,... thì được coi là nhập Miếu ở đó, bất kể là Cát tinh hay Hung tinh, lúc ấy đều mang đến những sự thuận lợi, khích lệ, những ảnh hưởng tích cực đối với người được ảnh hưởng bởi nó.

Chữ Miếu vốn có nghĩa là nơi thờ cúng thần linh, bởi vậy khi một sao nhập Miếu thì dù nó là Cát hay Hung tinh vẫn được coi như trở thành THẦN chứ không có Tính SÁT nữa. Cho nên, người ta lấy hình ảnh độ sáng rực rỡ, tinh anh của sao mà mô tả trạng thái nhập Miếu của sao.

Theo thứ tự Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm thì độ sáng giảm dần.

Tại sao người ta chỉ phân định vị trí Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm, cho một số sao?

Thưa, chỉ có những Diệu mới được coi là có thể thấy độ sáng rõ ràng, còn các phụ tinh khác thì ánh sáng có vẻ tương đương nhau suốt bốn mùa, dù là nó di chuyển đến góc nào, vị trí nào trên bầu trời vẫn thấy anh sáng không thay đổi.

Căn cứ vào đâu mà người ta phân biệt được sự thay đổi độ sáng này?

Thưa, trong thiên văn cổ, người ta (chủ yếu là các quan trong Khâm Thiên Giám hoặc cơ quan tương tự) quan sát và ghi chép rất tỉ mỉ về vị trí của các sao trên bầu trời trong suốt thời gian dài hàng trăm năm. Vì nhận thấy vị trí của khá nhiều sao có sự dịch chuyển sau 1 thời gian nhất định so với góc quan sát từ mặt đất, nên người ta mới dùng phương pháp vẽ ra các ô, các khung (gọi là cung) trên những tấm giấy ghi chép vị trí sao trên bầu trời. Rồi sau đó, khi nhìn trời người ta tưởng tượng trong đầu là vào thời gian đang quan sát thì những sao nào đang đi vào cung nào.

Trong môn Tử Vi, sự phân chia Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm, của các sao được căn cứ vào rất nhiều dữ kiện của Dịch Lý, Thiên Văn, Lịch Pháp, Ngũ Hành, Ngũ Sự, Tạp Chiêm,...

Ví dụ đối với Nhật - Nguyệt thì cứ theo lý thường (tạp chiêm) là ở các cung ứng với các Giờ theo thời gian thuộc Ban Ngày - khi mà Mặt Trời đang mọc lên thì Nhật được Đắc Vượng, đến các cung ứng với các giờ Tị, Ngọ thì Thái Dương nhập Miếu, sau đó là quá trình Mặt Trời lặn từ cung Thân cho đến các cung tương ứng Ban Đêm thì Thái Dương lạc Hãm. Đối với Nguyệt thì cũng theo cái lý tương tự nhưng diễn trình ngược lại.

Nhưng một số sao khác lại phải dùng Ngũ Hành mà định Đắc, Hãm,... một số sao lại phải dùng thời gian theo Lịch Pháp mà phân định nơi đắc hãm (có thời gian nó tỏ, có thời gian lại mờ)... một số sao lại phải dùng Dịch Lý (vị trí của các quái) mà định đắc, hãm,... chỉ có một điểm chung là mối tương quan Miếu Vượng Đắc Hãm của các sao đều phải phụ thuộc rất nhiều theo vị trí Miếu Vượng Đắc Hãm của 4 chúa tinh Tử - Phủ - Nhật - Nguyệt.

Khi các sao vào chỗ Hãm, thì dù là Cát tinh hay Hung tinh đều làm tăng tính tiêu cực, hung hiểm. Tính tốt, tích cực hầu như không phát huy được, trừ khi có Tuần Triệt đồng cung.

3. Các thuật ngữ về Cung, Thiên Bàn và Địa Bàn

Cung, là Không Gian nơi mà các sao cư ngụ, trên lá số Tử Vi được chia làm 12 cung, đặt tên theo 12 Địa Chi (từ Tý đến Hợi), đồng thời hàm chứa ý nghĩa về Thời Gian với 12 năm (Địa Chi theo Thái Tuế), 12 Tháng, 12 Giờ.

Như bài trước đã nói, Cung vốn là thuật ngữ của môn Thiên Văn Học, người ta phải chia sơ đồ trên giấy và trên trời (tưởng tượng có vạch phân chia) thành các cung khác nhau để theo dõi cho chính xác vị trí, triền thứ của sao sau mỗi thời gian nhất định trôi qua.

Khi đưa vào môn Tử Vi, vì cái lý "Trời tròn ôm lấy Đất vuông" của thuyết Cái Thiên, đầu tiên nên ta vẽ 1 hình vuông trên giấy để tượng trưng cho Đất, đó gọi là Địa Bàn. Tiếp đó, đem 12 cung của vòng tròn (như 1 tấm lưới 12 ô) tượng trưng cho Trời áp lên trên hình vuông của Địa bàn, 12 cung đó chính là Thiên Bàn. Để dễ nhìn và dễ vẽ 12 cung của vòng tròn Thiên Bàn được điều chỉnh thành vòng tuần hoàn 12 ô liên tiếp nằm ôm vừa vặn lấy hình vuông của Địa Bàn. Phần còn lại của Địa Bàn lúc này chỉ còn là ô vuông lớn nằm giữa lá số. Còn 12 ô vuông bé được gọi là Thiên Bàn.

Trước giờ khái niệm/thuật ngữ này được hiểu lẫn lộn, nhiều sách/người gọi ngược nhau, vì nhiều người cho rằng 12 ô vuông bé kia là Địa Bàn do nó mang tên của các Địa Chi. Thưa, không phải vậy, tên của 12 cung đó ban đầu là lấy theo tên của 12 cung trong Thiên Văn, sau mới được áp dụng tên Địa Chi của 12 tháng trong năm. Hơn nữa, các Sao thì phải nằm ở các cung trên trời, trên Thiên Bàn chứ, lẽ nào mà sao lại nằm ở dưới đất, dưới Địa Bàn cho được.

- Các cung Dần, Mão, Thìn: đại diện cho các tháng Giêng, Hai, Ba. Thuộc hướng Đông, trong đó vị trí Mão trỏ hướng Chính Đông. Đại diện cho mùa Xuân, có Hành thuộc Mộc, riêng cung Thìn thuộc Thổ vì tháng Ba là lúc khí Mộc của mùa Xuân đã bị suy yếu ẩn tàng đi để chuẩn bị bước sang mùa Hạ.

- Các cung Tị, Ngọ, Mùi: đại diện cho các tháng Tư, Năm, Sáu. Thuộc hướng Nam, trong đó vị trí Ngọ trỏ hướng Chính Nam. Đại diện cho mùa Hạ, có Hành thuộc Hỏa, riêng cung Mùi thuộc Thổ vì vào tháng Sáu thì khí Hỏa từ trời chiếu xuống đã suy yếu, thời tiết chuẩn bị bước sang mùa Thu.

- Các cung Thân, Dậu, Tuất: đại diện cho các tháng Bảy, Tám, Chín. Thuộc hướng Tây, trong đó vị trí Dậu trỏ hướng Chính Tây. Đại diện cho mùa Thu, có Hành thuộc Kim, riêng cung Tuất thuộc Thổ vì khi ấy khí khô táo của mùa Thu suy yếu, thời tiết có gió lạnh và chuẩn bị chuyển sang mùa Đông.

- Các cung Hợi, Tý, Sửu: đại diện cho các tháng Mười, Một (11), Chạp (12). Thuộc hướng Bắc, trong đó vị trí Tý trỏ hướng Chính Bắc. Đại diện cho mùa Đông, có Hành thuộc Thủy, riêng cung Sửu thuộc Thổ vì khi ấy khí lạnh đã suy yếu, chuẩn bị chuyển sang ấm áp của Mùa Xuân.

- Các Quái của các cung được phối với Hậu Thiên Bát Quái: Từ cung Tý ứng quái Khảm, Sửu & Dần ứng quái Cấn, Mão ứng quái Chấn, Thìn & Tị ứng quái Tốn, Ngọ ứng quái Ly, Mùi & Thân ứng quái Khôn, Dậu ứng quái Đoài, Tuất & Hợi ứng quái Càn.

- Nhàn Cung = Nơi mà một Sao nào đó có độ sáng kém, mờ,… nói cách khác thì ở “nhàn cung” thì Sao ấy lạc vào vị trí Bình hoặc Hãm. Thuật ngữ này dùng chủ yếu cho các Chính Diệu và các Cát tinh, vì khi đề cập đến nó thì người ta hay nói “lạc nhàn cung thì sức cứu giải kém,… lạc nhàn cung thì vô uy lực,…”, chứ hiếm thấy người ta sử dụng thuật ngữ này để nói về các Sát, Hung tinh.

- Cường Cung = Các cung (được cho là) có ảnh hưởng mạnh mẽ, quan trọng đối với số phận của 1 con người, đó là các cung: Mệnh, Phúc, Phu Thê, Quan Lộc, Tài Bạch, Thiên Di.

- Bản Cung = Cung mà ta đang xét, đang luận.

Ví dụ đang luận về vấn đề cha mẹ ở cung Phụ Mẫu thì cung này được gọi là Bản Cung. Nếu luận về vấn đề sức khỏe ở cung Tật Ách thì cung này được gọi là Bản Cung.

- Xung Cung = Hai cung mà nằm trên cùng một trục (trong 6 trục: Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi) thì được gọi là xung cung của nhau. Đôi khi, người ta còn gọi là “cung xung đối” hoặc “cung đối xung” vì 2 cung này vừa có Tính đối xứng với nhau qua tâm (trên trục của chúng và cũng là) của lá số, lại vừa có Tính đối xứng trục (qua trục khác vuông góc với trục của chúng).

Trong khi xem số (khán số), luận đoán lá số, thì Xung Cung có ảnh hưởng rất mạnh đối với cung đang xét. Vì lý rằng “có xung thì có động” (xung động) và ảnh hưởng của các sao trực chiếu (chiếu thẳng từ cung này tới cung xung với nó) là tác động cực lớn.

- Đối Cung = Hai cung mà có Tính đối xứng với nhau qua tâm hay qua một trục nào đó thì được gọi là “đối cung”.

Ví dụ 1: Xung Cung là trường hợp đặc biệt của Đối Cung.

Ví dụ 2: Cung Tý và cung Sửu được coi là đối cung của nhau qua trục phân chia gianh giới các cung Tý-Sửu và Ngọ-Mùi (nói cách khác là trục chia đôi lá số theo chiều dọc).

Ví dụ 3: Cung Tý và cung Tuất được coi là đối cung của nhau qua trục Tị-Hợi.

- Tam Phương = Ba cung Tam Hợp hợp với nhau = Từ 1 là Bản Cung đếm xuôi ngược đến 5 và đến 9 thì tới cung được gọi là Tam Hợp. Trên lá số Tử Vi có các Tam Hợp như sau:

+ Thân-Tý-Thìn: Ba cung này còn gọi là Tam Hợp Cục Thủy, tức là nhóm 3 cung này thành 1 cục và Hành của cục này là hành Thủy. (Nếu dùng lý tiêu trưởng 12 bước của vòng Tràng Sinh thì sẽ thấy địa chi đứng đầu sẽ ứng với vị trí Tràng Sinh, địa chi đứng giữa của Tam Hợp này sẽ ứng với vị trí Đế Vượng, địa chi đứng cuối sẽ ứng với vị trí Mộ. Nơi khí được Vượng nhất thì được lấy làm đặc trưng cho Tam Hợp này, mà Tý thì thuộc Thủy, cho nên Tam Hợp này mang hành Thủy).

+ Hợi-Mão-Mùi: còn gọi là Tam Hợp Cục Mộc.

+ Dần-Ngọ-Tuất: còn gọi là Tam Hợp Cục Hỏa.

+ Tị-Dậu-Sửu: còn gọi là Tam Hợp Cục Kim.

- Tứ Chính = Ba cung Tam Hợp + Xung cung.

Lưu ý: Tam phương Tứ chính thường được dùng cùng với nhau để nói về 3 cung, 4 cung mà có tác động mạnh mẽ nhất đến Bản Cung.

Ngoài ra, thuật ngữ Tứ Chính còn được dùng để chỉ 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu vì Hành mỗi cung này là đại diện Chính cho các Hành của Cục mà nó tham dự.

Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý, Tứ Chính còn được trường phái Tứ Hóa Phi Tinh của Tử Vi coi là 1 khái niệm riêng về 4 cung trên 2 trục trực giao (vuông góc với nhau), thí dụ như tổ hợp các cung Mệnh - Di - Điền - Tử.

Tổ hợp tương tác Tam Phương và tổ hợp tương tác trên 4 cung của 2 trục trực giao cũng là những tổ hợp chính trong phương pháp luận đoán của Chiêm Tinh Vedic và Chiêm Tinh phương Tây, trong đó, Tam Phương là có góc chiếu 120 độ (tính từ tâm, tức địa bàn quan sát) được gọi là tổ hợp tương tác Grand Trine = Đại Tam Hợp, còn tổ hợp 4 cung trên 2 trục trực giao có góc chiếu 90 độ (tính từ tâm) được gọi là tổ hợp tương tác T Square = T Vuông hay là Đại Trực Giao, còn tổ hợp 4 cung gồm 3 cung Tam Hợp và 1 cung ở đối xung với 1 đỉnh trong tam giác tam hợp đó thì được gọi là tổ hợp tương tác Kite = Hình Diều và đây chính là tổ hợp tương tác giống như thuật ngữ Tam Phương Tứ Chính của Tử Vi Đẩu Số theo trường phái Tam Hợp.

- Hiệp: Các Cát Tinh ở các cung giáp bên, tam hợp, đối chiếu cùng chiếu về bản cung có Cát Tinh; hoặc các Hung Tinh cùng tụ tập về bản cung có Hung Tinh; tức là các sao cùng tính cát (tốt) hay hung (xấu) tụ hội với nhau thì được gọi là "hiệp" = hiệp trợ, cùng hợp sức, cùng trợ giúp,... cho nhau.

- Hiếp: Các Hung Tinh ở các cung tam hợp, đối chiếu, giáp bên, cùng chiếu về bản cung có Cát Tinh, thì gọi là "hiếp" = ức hiếp, đe dọa, gây hoạn nạn,...

- Tọa: Các Cát Tinh nhập vào bản cung thì được gọi là Tọa (ngồi).

- Cứ: Các Hung Tinh nhập vào bản cung thì được gọi là Cứ (chiếm giữ).

- Triều: Các Cát Tinh ở cung xung đối, chiếu về bản cung thì được gọi là Triều (chầu).

- Xung: Các Hung Tinh ở cung xung đối, chiếu về bản cung thì được gọi là Xung (xung kích, kích động).

- Củng: Các Cát Tinh ở cung tam phương tứ chính (đôi khi tính cả cung nhị hợp) thì được gọi là Củng = vây quanh để củng cố, hỗ trợ.

- Cung Nhị Hợp = các cung đối xứng với nhau qua trục chia gianh giới dọc lá số, ảnh hưởng của Nhị Hợp thường có tính chất 1 chiều thì mạnh, chiều ngược lại thì yếu, có 6 cặp cung:

+ Sửu nhị hợp vào Tý

+ Hợi nhị hợp vào Dần

+ Mão nhị hợp vào Tuất

+ Dậu nhị hợp vào Thìn.

+ Tị nhị hợp vào Thân.

+ Mùi nhị hợp Ngọ.

- Cung Lục Hại = các cung đối xứng với nhau qua trục chia gianh giới ngang lá số, ảnh hưởng của Lục Hại có tác dụng 2 chiều tương đương và thường là khắc chế, làm hại lẫn nhau. Các cặp cung Lục Hại:

+ Tý <-> Mùi.

+ Sửu <-> Ngọ.

+ Dần <-> Tị.

+ Mão <-> Thìn.

+ Thân <-> Hợi.

+ Dậu <-> Tuất.

- Lân Cung, Giáp Cung = các cung ở cạnh, liền kề ngay bên bản cung thì được gọi là Lân (hàng xóm) Cung, giáp cung.

Các sao đôi từng cặp (như Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Không Kiếp,...) mà ở tại các Lân Cung thì được gọi là "giáp bản cung" (gọi tắt = giáp).

- Thiên La = cung Thìn. Thìn là nơi biểu hiện của ngày Đông chí, mặt trời tới giờ Thìn mà vẫn "chưa mọc hết" tức là ở vị trí thấp nhất với đường chân trời so với các ngày khác trong năm. Hiện tượng đó được hình dung như mặt trời bị vướng vào cái lưới nên đặt tên là Thiên La cho cung Thìn, đặt vào đó 1 "sao" gọi là Thiên La, tượng là cái lưới, chặn, vướng mắc, khó khăn,...

- Địa Võng = cung Tuất. Tuất là nơi biểu hiện của ngày Hạ chí, mặt trời tới giờ Tuất mà vẫn "chưa lặn hết" tức là ở vị trí cao nhất với đường chân trời so với các ngày khác trong năm. Hiện tượng đó được hình dung như là mặt đất bị võng xuống nên giờ ấy mặt trời vẫn chưa lặn hết, nên đặt tên Địa Võng cho cung Tuất, đặt ở đó 1 sao Địa Võng, tượng là cái hố, cái bẫy, đất sụt, khó khăn,...

- Tứ Sinh / Tứ Mã = vị trí của các cung Dần, Thân, Tị, Hợi.

Tại đó, luôn luôn là vị trí mà sao Thiên Mã và sao Tràng Sinh, không bao giờ 2 sao này được an ở các cung ngoài 4 cung này.

Nếu xét các bộ Tam Hợp (ví dụ, Thân-Tý-Thìn) thì địa chi đứng đầu bao giờ cũng là ở vị trí của Sinh.

- Tứ Bại / Tứ Đào Hoa / Tứ Chính = vị trí của các cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Tại đó luôn luôn là vị trí của Mộc Dục (của vòng Tràng Sinh cho Địa Chi) và của Đào Hoa, chủ phát dục, tình ái, tửu sắc cho nên gọi là Bại. Nếu xét các bộ Tam Hợp thì Địa Chi đứng chính giữa bao giờ cũng thuộc về Tứ Chính bởi vì đứng giữa Tam Hợp cũng là đứng giữa Tam Hội và ở Chính hướng theo các phương hướng Đông Tây Nam Bắc đồng thời là đại diện Chính cho Ngũ Hành của Tam Hợp và Tam Hội.

- Tứ Mộ = Các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Nguyên nhân và ý nghĩa cũng tương tự như cách giải thích 2 trường hợp trên.

- Lôi Môn = cung Mão, đó là vị trí được phối với quẻ Chấn, mà Chấn vi Lôi (chấn là sấm sét).

- Thiên Môn = cung Hợi (có khi kể cả Tuất) vì đó là vị trí được phối với quẻ Càn, mà Càn vi Thiên.

- Địa Môn = cung Tị (có khi kể cả Thìn) vì đó là nơi đối diện với Thiên Môn.

* Có nhiều sách dùng thuật ngữ "Thiên Môn, Địa Hộ" (cửa trời, cửa đất) là để chỉ cung Thìn và cung Tuất.

- Phân chia Tam Tài cho cung:

+ Tý Ngọ Mão Dậu thuộc tài Thiên, vì "Thiên khai ư Tý".

+ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc tài Địa, vì "Địa tịnh ư Sửu".

+ Dần Thân Tị Hợi thuộc tài Nhân, vì "Nhân sinh ư Dần".

PHƯƠNG PHÁP LUẬN TỔNG QUÁT

Quan sát tổng quát 1 lượt khắp lá số (đừng có tạo thói quen xấu là cầm lá số tử vi lên lại cắm cúi ngay vào xem mỗi cung Mệnh hay mỗi cung nào đó đang quan tâm):

1. Thuận lý hay Nghịch lý giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].

Trong mỗi cặp so sánh, nếu các yếu tố cùng thuộc dương thì thuận lý, còn một dương một âm thì nghịch lý. Nếu cả 4 yếu tố đều thuộc âm hay đều thuộc dương là rất tốt vì được thuần cách âm dương tính. Thuận lý thì độ số tăng, nghịch lý thì độ số giảm.

2. Tương Sinh hay Tương Khắc giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].

So sánh về Sinh Khắc của Nạp Âm Ngũ Hành các yếu tố trong từng cặp xem thế nào: Nếu năm tương sinh cho tháng thì tốt; ngày tương sinh cho giờ thì tốt. Nếu Năm sinh cho Tháng, Tháng lại sinh cho Ngày, Ngày sinh cho Giờ thì rất tốt, số đại quý.

3. Hợp hay Phá giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].

So sánh về sinh khắc của Ngũ Hành đơn theo Thiên Can của các yếu tố trong từng cặp. Hợp thì độ số tăng mà Phá là độ số giảm.

* Nhận xét: Từ các điểm 1, 2, 3, thì ta có thể phân biệt được sự khác nhau và độ số cao thấp của 2 lá số giống hệt nhau nhưng sinh cách nhau 60 năm. Bởi lẽ Can-Chi của ngày khác nhau (đồng nghĩa với Can của Giờ cũng khác nhau). Lại có cả những trường hợp 2 lá số giống hệt nhau nhưng chỉ sinh cách nhau 12 ngày hoặc 24 ngày trong cùng tháng cùng năm và trùng cả giờ sinh, điều này chỉ xảy ra với Thủy Nhị Cục (6 trường hợp) và Thổ Ngũ Cục (12 trường hợp), và sự lệch nhau theo số ngày như trên làm cho 4 sao Thai Tọa Quang Quý đóng vào vị trí giống nhau theo vòng lặp, để phân biệt sự khác nhau về độ số của các lá số trùng lặp này, rất đơn giản là nhìn vào Thiên Can của Ngày (và Giờ), bởi vì lặp lại 12 & 24 ngày chính là lặp lại về Địa Chi của ngày nhưng đối với Thiên Can của ngày thì lại không bị lặp lại giống nhau. Đây là điều trọng yếu mà trước giờ ít người biết đến hoặc không để ý đến, hoặc là có biết nhưng không nói lộ ra.

4. Tương Sinh hay Tương Khắc giữa [Bản Mệnh với Cục].

Bản Mệnh = hành khí nạp âm của cả năm. Ví dụ, người sinh Quý Tị có Bản Mệnh là Thủy. Thì khí Thủy làm chủ của cả năm Quý Tị này.

Hành của Cục = hành khí nạp âm của tháng (trong năm mà đương số sinh ra) - chính là nơi mà an cung Mệnh vào đó.

Nếu mà Mệnh Cục tương sinh hoặc tỉ hòa với nhau thì được đánh giá là một yếu tố tốt - làm tăng độ số, không cần phân biệt quá chi tiết xem Mệnh sinh Cục tốt hơn hay Cục sinh Mệnh thì tốt hơn. Còn nếu như Mệnh Cục tương khắc thì cần đánh giá đây là một yếu tốt kém - làm giảm độ số, cũng không cần phân biệt quá chi tiết xem Mệnh khắc Cục xấu hơn hay Cục khắc Mệnh xấu hơn.

Lưu ý: đã xét sinh khắc của Ngũ Hành thì đồng thời phải chú ý đến Âm Dương tính của chúng, mà Âm Dương tính của Bản Mệnh với Cục chính là bước ngay sau đây.

4+. Thuận lý hay Nghịch lý giữa [Năm sinh với Cung an Mệnh].

Sinh năm dương và Mệnh an cung dương; sinh năm âm và Mệnh an cung âm; đều là thuận lý. Cứ trái nhau về âm dương là nghịch lý.

Thực chất thì đây cũng chính là xét đến Âm Dương tính của Bản Mệnh với Cục, nếu như Mệnh Cục tương sinh và Âm Dương thuận lý thì độ số tăng mạnh (độ số là thuật ngữ chung chung chỉ về cường độ của khí lực) nếu Cách Cục tốt nữa thì sẽ lực phát rất nhanh mạnh, nếu Cách Cục xấu thì cũng là yếu tố cứu vớt cho đỡ bị chết non. Nếu như Mệnh Cục tương sinh nhưng Âm Dương nghịch lý thì có Cách Cục tốt vẫn chậm phát hoặc không phát lớn vì lực phát yếu, còn Cách Cục mà xấu thì cũng không cứu được nhiều. Nếu như Mệnh Cục tương khắc mà Âm Dương nghịch lý thì Cách Cục tốt vẫn sẽ phát nhưng rất chậm, do cái khắc khác tính Âm Dương không ác liệt, nếu Cách Cục xấu thì cũng chưa chắc đã chết non mà có thể cứu được. Nếu như Mệnh Cục tương khắc mà Âm Dương thuận lý thì cái khắc cùng tính Âm Dương này rất mãnh liệt, Cách Cục tốt thì vẫn không được hưởng nhiều mà phát thì cực chậm lại chẳng thể phát lớn, còn một khi Cách Cục xấu mà Mệnh cung lại còn ở chỗ Tuyệt khí thì chết non, khó cứu.

Lưu ý: Sách của Thái Thứ Lang còn nói “Sinh Giờ dương mà Mệnh an cung dương là thuận lý”. Từ cách an cung Mệnh, ta thấy khi sinh tháng dương thì giờ cũng phải thuộc dương thì cung Mệnh mới đóng ở dương cung, khi sinh tháng âm thì giờ sinh phải là dương thì Mệnh mới an ở cung âm được. Cho nên sự so sánh về thuận nghịch lý âm dương của [Giờ sinh với cung an Mệnh] không cần phải quan tâm nữa.

5. Mối quan hệ giữa [Hành của Bản Mệnh với Cung an Mệnh]

Nếu cung Mệnh ở vào vị trí Sinh Vượng của ngũ hành Bản Mệnh thì tốt. Thấy tốt rồi thì xét thêm đến tinh đẩu trong cung Mệnh (xem mục 6 bên dưới) xem miếu vượng hay không, có thành cách cục hay không,… Cần chú ý rằng, ở đây chúng ta không xét sự sinh khắc về Ngũ Hành của Bản Mệnh với cung an Mệnh, mà chúng ta xét vị khí cung an Mệnh nằm ở chỗ nào, thời kỳ nào trong 12 trạng thái vượng suy theo khí Ngũ Hành của Vòng Tràng Sinh Bản Mệnh.

Nếu như cung Mệnh ở vào vị trí Bại Suy Tử Tuyệt của ngũ hành Bản Mệnh thì xấu. Nhưng ở vào chỗ này, nếu như được ngũ hành của Chính Tinh tương sinh cho Bản Mệnh thì lại được cứu giải.

Ví dụ như Mệnh Thủy mà cung Mệnh an tại Thân (khỉ) là Sinh địa, an tại Dậu là Bại địa, an tại Hợi Tý là chỗ Thịnh Vượng, an tại Sửu là Suy, tại Dần là Bệnh, tại Mão là Tử, tại Tị là Tuyệt địa.

Mệnh Thủy mà Mệnh an tại Tị, có sao thuộc hành Kim ở đó là sẽ được cứu giải, vì Kim tương sinh cho Thủy.

Sách viết:

- Nam cư Sinh Vượng tối yếu đắc địa, Nữ cư Tử Tuyệt chuyên khán Phúc Đức.

(Nam nhân mệnh ở chỗ Sinh Vượng thì tối quan trọng phải xem tinh đẩu có đắc địa chăng,

Nữ nhân mệnh ở chỗ Tử Tuyệt thì phải xem chuyên sâu vào cung Phúc Đức).

- Mệnh tối hiềm lập vu bại địa, Tài nguyên khước phạ phùng Không Vong.

(Mệnh rất sợ an vào chỗ bại địa, Tài tinh tài cung thì ghét gặp phải Không Vong).

- Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa. Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.

(Mệnh cư chỗ bại địa là như hoa sớm nở tối tàn. Mệnh ở chỗ tuyệt địa nhưng được tương sinh thì không thể suy tàn sớm được).

5+. Thuận hay không thuận của [Bản Mệnh với Mùa sinh].

Bản Mệnh Mộc sinh mùa Xuân mộc, Bản Mệnh Hỏa sinh mùa Hạ hỏa, Bản Mệnh Kim sinh mùa Thu kim, Bản Mệnh Thủy sinh mùa Đông thủy, Bản Mệnh Thổ sinh vào tứ Quý thổ (18 ngày cuối mỗi mùa) đều gọi là Mệnh được Vượng.

Bản Mệnh Mộc sinh mùa Đông thủy, Bản Mệnh Hỏa sinh mùa Xuân mộc, Bản Mệnh Kim sinh tứ Quý thổ, Bản Mệnh Thủy sinh mùa Thu kim, Bản Mệnh Thổ sinh vào mùa Hạ hỏa, đều gọi là Mệnh được Tướng.

Vượng Tướng là thuận, độ số được gia tăng. Còn Hưu Tù Tử Tuyệt đều bất thuận, độ số giảm.

Lưu ý: Đây là xét Ngũ Hành Nạp Âm của Bản Mệnh với Ngũ Hành theo “phương Cục” lại khác với trường hợp so 2 Nạp Âm với nhau. Vì đây là xét thiên về Khí chứ không coi Số làm trọng nữa. Bởi vì ngũ hành của “phương Cục” không phải là Ngũ hành nạp âm, mà nó là Khí điển hình của Mùa trong năm.

6. Chính Diệu thủ (ở cung) Mệnh:

* Miếu hay Hãm.

Các sao miếu vượng thì hay, nếu như lạc hãm thì dở. Nhưng miếu vượng mà gặp Không Vong thì dở mà lạc hãm gặp Không Vong thì lại hay.

Cái này, sách gọi là “Tinh luận miếu vượng tối phạ không vong, Sát lạc không vong cánh vô uy lực”.

(Luận các sao, đã miếu vượng thì rất sợ gặp phải Không Vong, còn Sát tinh mà gặp Không Vong thì không đáng ngại vì nó chẳng có uy lực gây họa gì nữa).

Miếu và Hãm còn liên quan rất trọng yếu đến mức độ cát hung, người xưa phân chia thành các mức độ là Hư và Thực:

Cát tinh ở nơi miếu vượng là thực cát, nhất định là có tốt lành. Còn cát tinh ở nơi hãm địa thì là hư cát, không phát huy được tính tốt, mà còn thể hiện tính xấu, mặt trái của nó.

Hung tinh ở nơi hãm địa là thực hung, nhất định là có tính hung sát, gây ra tai nạn, bệnh tật,...

Hung tinh ở nơi miếu vượng là hư hung, vì là hư hung nên chẳng đáng sợ, nó còn phát huy và bổ xung được tính quyết liệt mạnh mẽ tích cực lên cách cục, người làm nên đại sự không thể thiếu vắng sự quyết liệt của hung tinh đắc địa. Sách nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi” chính là vì như vậy.

Và sách cũng nói “Hung bất giai hung, cát vô thuần cát” (Hung thì không có lúc nào nó cũng hung, Cát thì cũng chẳng phải lúc nào cũng thuần là cát), chính là nói đến cái Hư Thực về tính Cát Hung của các sao vậy.

* Hợp hay không so với Bản Mệnh về âm dương tính.

Tức là xét xem tính Nam Bắc đẩu của Chính tinh và đương số là Âm Dương Nam Nữ như thế nào.

Nam đẩu tác phúc cho Dương nam Âm nữ. Bắc đẩu thì tác phúc cho Âm nam Dương nữ.

* Sinh hay Khắc so với Bản Mệnh về ngũ hành tính.

Tức là xét sinh khắc về ngũ hành của Chính tinh thủ Mệnh với Bản Mệnh. Chính Tinh đồng hành hoặc tương sinh cho bản Mệnh thì hay, còn nó tương khắc với Mệnh thì dở.

Sách gọi là:

Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại cần xét xem then chốt của sinh khắc.

(Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý chế hóa).

7. Tốt hay Xấu giữa [cung Mệnh với cung Thân].

Sách nói:

- Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.

Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.

(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị. Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.

Một đời vinh nhục bại thành

Cần xem tường tận ngũ hành của cung

Lập Mệnh quý tiện định chung

An Thân biết có vẫy vùng được chăng).

- Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã, nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã, thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.

(Người phú quý thì vinh vậy, kẻ bần tiện thì nhục vậy, xem trong số mệnh của con người mà biết vậy. Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại).

- Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,

Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.

(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh,

Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn mày).

- Mệnh Triệt, Thân Tuần, tu cần Vô hữu chính tinh, vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.

Mệnh Tuần, Thân Triệt, hoan đắc Văn đoàn hữu thủ, phú quý danh tài cánh phát chung niên.

(Mệnh Triệt, Thân Tuần, rất cần Vô Chính diệu, cuối đời thì vạn sự có thể thành công.

Mệnh Tuần, Thân Triệt, mừng được Cơ Nguyệt Đồng Lương, cuối đời phát công danh phú quý).

- Mệnh Không, Thân Kiếp, lai hội song Hao, ư nhân Mệnh vô chính diệu, thiểu học đa thành,

mạc ngộ Phúc Ấm, Hao tinh Thân Mệnh, niên thọ nãi cầu vượng hưởng.

(Mệnh Không, Thân Kiếp, lại hội Song Hao, người Mệnh cung VCD thì thông minh, học 1 biết 10,

Nếu mà Mệnh cung lại có Đồng Lương hay Phá Quân ở Thân Mệnh thì đừng hòng đòi hưởng thọ).

- Mệnh Kiếp, Thân Không, nhi giao Hồng Nhận, ư tuế Mệnh lạc chính tinh, tiền đồ đa khổ,

nhi hữu Âm Dương, Đế diện Mệnh Thân, chung niên Phúc hoạnh sinh tài.

(Mệnh Kiếp, Thân Không, lại hội Hồng với Kình ở cung Mệnh có chính tinh lạc hãm là nửa cuộc đời ban đầu lắm khổ đau, thậm chí có thể chết non.

Nếu như có Nhật Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa chiếu về Mệnh Thân thì cuối đời bỗng nhiên lại giàu).

- Thân Mệnh đồng cung, tối hiềm nhập Mộ, hoặc ư Tuyệt xứ bất kiến chính tinh,

tu cần tả hữu Vượng Sinh hòa nhập, biến hung thành cát, chung thân vượng hưởng phúc tài.

(Mệnh Thân đồng cung, rất kị ở nơi Mộ địa hoặc ở chỗ Tuyệt địa, mà lại không có chính tinh,

Mà trường hợp này rất cần ở 2 bên cánh trái phải - tức Tài Quan, là chỗ Sinh Vượng địa có các cát tinh để tương trợ biến hung thành cát, như vậy cuối đời mới được hưởng phúc, được giàu sang).

- Mệnh Thân đồng tọa, như tại Hỏa cung, hoặc lâm Hợi địa, đồng vô chính diệu,

khủng kiến Mã Hình Linh Kiếp, thử chung hoa khai ngộ vũ, mãn thế phi bần tắc yểu.

(Mệnh Thân đồng cung tại Tị Hợi mà lại VCD thì sợ nhất là gặp Mã, Hình, Linh, Kiếp

Như thế là cảnh hoa mới nở gặp ngay mưa gió vùi dập, cả đời nếu chẳng nghèo thì sẽ chết non).

8. Tốt hay Xấu của cung Phúc Đức.

Sách nói:

Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.

(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).

Đem phối hợp với Mệnh cung mà đoán.

9. Vị trí của Chính Diệu ở 12 cung: [Miếu hay Hãm]; [đúng Vị hay sai Vị].

Miếu hãm thì như đã nói ở phần trên, còn đúng Vị thì có nghĩa là Tài tinh đóng ở Tài cung, Quyền tinh Quý tinh đóng ở Quan cung, Phúc tinh Ấm tinh đóng ở Phúc cung Phụ Mẫu cung,…

10. Vị trí của Tứ Hóa trên 12 cung: Có được việc hay không.

Hóa Quyền hóa Khoa thì đóng ở cung Quan cung Mệnh, Hóa Lộc thì đóng ở cung Điền cung Tài. Hóa Kị đóng nơi Tứ Mộ địa hoặc đồng cung Thanh Long, hoặc đồng cung Âm Dương sửu mùi, hoặc đồng cung Liêm Tham tị hợi,… đó đều là được việc cả.

11. Vị trí của Lục Sát Tinh (Kình Đà, Linh Hỏa, Kiếp Không).

Sát tinh ở nơi đắc địa thì hay, còn ở chỗ hãm thì dở, mà đã hãm thì chớ có lâm vào Mệnh Tài Quan.

Xem thêm phần nói về đắc hãm và hư thực cát hung của sao ở mục 6.

12. Đại Hạn 10 năm vận hành trên 12 cung.

Sách nói:

Thương, Tang, Hình, Khổn, Hạnh, Lạc, Hỷ, Hoan thị lại vận hạn cát hung.

(Vui buồn sướng khổ chính là do Vận Hạn gặp các Sao/ Cách cục cát hay hung)

Đem phối hợp với Mệnh cung mà đoán

GIẢI ĐOÁN 12 CUNG CHỨC NĂNG

“Cung chức” là như thế nào?

Thưa, cung chức là định danh chức năng Nhân Sự (con người và sự việc) mà cung đó quản lý, biểu hiện, mô tả. Các định danh chức năng Nhân Sự ấy có thể thí dụ như là: Cung Phụ Mẫu thì quản lý và biểu hiện về mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ mình, đồng thời mô tả khái lược về cha mẹ của đương số. Cung Phu Thê thì quản lý và biểu hiện về mối quan hệ của đương số đối với vợ/chồng mình, đồng thời mô tả khái lược về vợ/chồng của đương số,…

Cần phải phân biệt rõ thuật ngữ “cung chức” và thuật ngữ “cung vị” trên lá số trong khi giải đoán. Đối với “cung vị” thì hàm nghĩa nhấn mạnh đến Vị trí từ Tý tới Hợi, từ quẻ Khảm tới quẻ Càn, vị trí trong tam hợp Cục, vị trí theo thời gian, theo mùa, vị trí theo vòng Tràng Sinh,…

Đối với 12 cung chức sau khi bày ra trên lá số Tử Vi đã tạo thành quần thể các mối quan hệ xã hội xung quanh đương số, với cung Mệnh làm trung tâm.

Khi giải đoán cung chức, đối với các sao cần phải lưu ý đến cung vị của nó để mà xét các cách cục cho tinh, đồng thời khi đã thuộc cách an sao và bố cục (thế đứng) của các sao thì từ 1 cung chức và cung vị nào đó, có thể hình dung ra toàn cục chính của lá số với 11 cung chức và cung vị còn lại.

Trước khi đi vào các bước giải đoán 12 cung chức, chúng ta hãy xem lại bài phú Phát Vi Luận (Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh):

Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng,

án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.

(Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,

từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác).

Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ;

đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.

(Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;

Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh).

Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.

(Cát tinh nhập mệnh, miếu đắc thì sẽ cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung).

Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;

Thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.

(Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;

Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện).

Tả Hữu hội ư Tử Phủ, cực phẩm chi tôn;

Khoa Quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.

(Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,

Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận).

Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;

lập mệnh hội tại cường cung, tất năng hàng ngoan.

(Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,

lập Mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ng* d*t).

Dương Đà Thất Sát, hạn vận mạc phùng, phùng chi định hữu hình thương;

Thiên Khốc Tang Môn, lưu niên mạc ngộ, ngộ chi thực phòng phá hại.

(Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,

Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng trong nhà bị hao tán).

Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,

Bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.

(Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,

Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái).

Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;

Xương Khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.

(Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,

Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi).

Gian mưu tần thiết, Tử Vi, Quý, ngộ Phá quân;

dâm bôn đại hành, Hồng Loan sai phùng Tham tú.

(Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,

Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật).

Mệnh Thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;

huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu.

(Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,

Ba cung Mệnh Tài Quan mà huyền ảo không sáng sủa thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu).

Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;

Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.

(Sát tinh lâm vào tam vị - Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ con,

Cự Môn đến nhị cung - Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).

Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;

chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.

(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;

Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).

Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;

Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mạc.

(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,

Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).

Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;

ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.

(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,

ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).

Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;

Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.

(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,

Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).

Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;

Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.

(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,

Tướng Mạo, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).

Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.

(Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai).

1. Giải đoán cung Mệnh

Các bước phía trên (phần A, B ) đã nói rất nhiều đến những lý luận để giải đoán cung Mệnh, đồng thời những phần tính lý chung của các sao cũng hầu hết đều dùng cung Mệnh làm đại diện để mô tả tính chất của chúng. Cho nên mọi người cần đọc lại và nắm cho vững, còn trong phần này xin dành để trình bày phần phụ luận cho cung Mệnh với các điểm cần quan tâm như an Mệnh vào Kim Tỏa Thiết Xà và an Mệnh theo giờ Quan Sát.

a. Kim Tỏa Thiết Xà quan.

Về tên gọi thì còn được biết đến với tên gọi là “Kim Xà Thiết Tỏa”, nhưng quả thực tôi cũng không hiểu nghĩa của “Kim Xà Thiết Tỏa” là cái gì, theo tôi suy đoán thì có lẽ do phương pháp truyền khẩu nên đây là một cách gọi lệch đi của “Kim Tỏa Thiết Xà” mà thôi, dần dà cứ gọi nhiều thành quen nên cứ dùng như vậy.

“Kim Tỏa” thì chúng ta vẫn thường biết đến với cụm từ “vòng Kim Tỏa” tức là vòng xiềng xích khóa chặt, vây hãm nguy hiểm,… và “Thiết Xà” nghĩa là con rắn đen, còn chữ “quan” có nghĩa là cửa ải. Vì vậy, “Kim Tỏa Thiết Xà quan” có nghĩa là cái cửa ải nguy hiểm bị bao vây bởi những con rắn đen, hoặc nghĩa là Khóa vàng Rắn sát bao vây.

Cách xác định cung an vào chỗ Kim Tỏa Thiết Xà quan như sau:

Đương tòng Tuất thượng, khởi Tý niên,

Thuận số hành niên, nguyệt nghịch thôi,

Nhật hựu thuận số, thì nghịch chuyển,

Tiểu nhi thọ yểu, khả tiên tri.

(Tuất cung hô Tý đếm theo năm,

Thuận tới niên sinh, nghịch tháng trăng,

Đi thuận ngày sinh, giờ nghịch chuyển

Tiên tri trẻ thọ hoặc yểu chăng).

Phép ấy, theo Tuất cung khởi năm Tý mà đi thuận cho đến Địa Chi năm sinh, (đến cung nào) lại từ đó mà khởi tháng Giêng đếm nghịch tới Tháng Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến Ngày Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi giờ Tý đếm nghịch đến Giờ Sinh.

Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào cung Thìn Tuất, của Nữ rơi vào Sửu Mùi thì gọi là rơi vào “Kim Tỏa Thiết Xà quan” (hoặc gọi là sinh vào giờ Kim Tỏa Thiết Xà), rất đáng lo ngại vì từ lúc sinh ra khó nuôi, dễ chết yểu, phải qua 12 tuổi thì mới đỡ lo.

Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào Sửu Mùi, của Nữ rơi vào Thìn Tuất thì gọi là Bàng giờ, trẻ tuy là hay ốm yếu khó nuôi nhưng còn đỡ lo ngại về yểu tử hơn là rơi vào chính cửa ải Kim Tỏa Thiết Xà.

Nguyên lý nào dẫn đến hiện tượng này, cho đến nay vẫn chưa được lý giải thuyết phục, chỉ thấy kinh nghiệm của các cụ truyền lại và thực tế có nhiều ứng nghiệm như vậy, thành ra cần phải nghiên cứu thêm nữa.

Lưu ý: Nhấn mạnh trường hợp tính đến cung cuối cùng (lúc tính đến giờ sinh) lại trúng cung an Mệnh mà trùng lặp vào chỗ Thìn Tuất (với Nam), chỗ Sửu Mùi (với Nữ) đồng thời khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan. Những lá số như thế rất đáng lo ngại. Ngoài ra, khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan nhưng cung an Mệnh không trùng vào chỗ Thìn Tuất Sửu Mùi thì ít lo ngại hơn, tuy nhiên vẫn thuộc mẫu lá số có nguy cơ cao về yểu mạng, sau 13 tuổi thì đỡ lo. Cách giải là đem bán khoán trẻ cho nhà chùa.

b. Cung lập Mệnh với giờ Quan Sát

Giờ Quan Sát được xác định bằng cách dùng tháng sinh và giờ sinh như:

Sinh tháng Giêng vào giờ Tị,

sinh tháng Hai vào giờ Ngọ,

sinh tháng Ba vào giờ Mùi,

sinh tháng Tư vào giờ Thân,

sinh tháng Năm vào giờ Dậu,

sinh tháng Sáu vào giờ Tuất,

sinh tháng Bảy vào giờ Hợi,

sinh tháng Tám vào giờ Tý,

sinh tháng Chín vào giờ Sửu,

sinh tháng Mười vào giờ Dần,

sinh tháng Một vào giờ Mão,

sinh tháng Chạp vào giờ Thìn.

Đương số rơi vào các trường hợp trên thì gọi là sinh vào giờ Quan Sát, thường hay ốm yếu, bệnh tật, hoặc dễ bị các tai nạn,…

Với cách an Mệnh cung trong Tử Vi thì ta dễ dàng nhận thấy, sinh vào giờ Quan Sát chính là trường hợp cung Mệnh luôn luôn an cố định tại cung Dậu. Và ở vị trí này thì Mệnh cung vĩnh viễn nhị hợp vào cung Tật Ách, luôn trái lý âm dương với nhau. Tam hợp Cục của cung Mệnh thuộc Kim và sinh xuất cho tam hợp Cục của cung Tật thuộc Thủy, khiến cho nguyên khí của Mệnh cung bị tổn hao, suy giảm. Trường hợp này, quả là Mệnh bị coi như là cung Nô của Ách. Nhân gây ra ở Mệnh thì Quả chịu ở Tật Ách.

Tương đồng cái lý của giờ Quan Sát thì ta bắt gặp một số trường hợp đặc biệt chính là “giờ Dạ Đề”.

Cách tính giờ Dạ Đề là:

sinh mùa Xuân vào giờ Ngọ,

sinh mùa Hạ vào giờ Dậu,

sinh mùa Thu vào giờ Tý,

sinh mùa Đông vào giờ Mão.

Trẻ con mà rơi vào các trường hợp này thì rất hay kêu khóc vào đêm (dạ đề), có khi khóc suốt 3 tháng (hoặc 100 ngày) đầu đời.

Như ta đã biết, mỗi mùa gồm có 3 tháng, phân ra làm Mạnh - Trọng - Quý, nếu như xét các tháng Chính giữa mùa là:

Trọng Xuân (chứa điểm Xuân Phân, Mặt Trời ở kinh độ 0 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Hai, sinh vào giờ Ngọ;

Trọng Hạ (chứa điểm Hạ Chí, Mặt Trời ở kinh độ 90 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Năm, sinh vào giờ Dậu;

Trọng Thu (chứa điểm Thu Phân, Mặt Trời ở kinh độ 180 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Tám, sinh vào giờ Tý;

Trọng Đông (chứa điểm Đông Chí, Mặt Trời ở kinh độ 270 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Một, sinh vào giờ Mão;

Thì thấy rõ ràng giờ Dạ Đề là một dạng của giờ Quan Sát, chỉ có điều khi xét chung cho cả 3 tháng của một mùa thì ảnh hưởng phân tán nên không bị ảnh hưởng mạnh mẽ như là giờ Quan Sát mà thôi.

Nguyên lý của giờ Quan Sát, giờ Dạ Đề, giờ Tướng Quân, giờ Diêm Vương, đều có thể sử dụng lý luận của Thiên Văn học (mối quan hệ của Trái Đất và Mặt Trời) và lý luận của Âm Dương Ngũ Hành (gốc của Y lý) để giải thích rất dễ dàng.

2. Giải đoán cung Bào (Huynh đệ cung)

Cung Huynh Đệ cho biết mối quan hệ của đương số với anh chị em trong gia đình, tình cảm có hòa hợp hay là xung khắc, có tương trợ cho nhau được hay không, anh chị em được đoàn viên gần gũi hay phải chia lìa phân tán,… Đồng thời dự đoán khái lược về anh chị em có nhiều hay ít, có anh chị em thành đạt hay không, có anh chị em yểu chiết hay không, có anh chị em dị bào (cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha),…

Xem cung Huynh Đệ cần lưu ý kết hợp với cung Phúc Đức vì phúc đức là cái gốc của tình cảm thân thích họ hàng, dẫu cho cung Huynh Đệ có đẹp mà cung Phúc Đức bị sát ám bại tinh tụ họp xung phá thì sự tốt đẹp ở cung Huynh Đệ bị giảm đi khá nhiều, anh chị em có thể thành công nhưng không hòa hợp hay ở gần gũi cùng đương số hoặc ngược lại. Nếu như cung Huynh Đệ bị sát ám bại tinh tụ họp xung phá, nhưng có được cung Phúc Đức tốt đẹp thì kể như là được cứu giải, giảm đi sự hình khắc và ly tán, anh chị em với đương số có thể nương tựa đùm bọc lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau mà phát triển trong cuộc sống.

Xem cung Huynh Đệ cần lưu ý tới vị trí của sao Thiên Cơ, bởi vì sao này là thần chủ quản của cung Huynh Đệ, cho nên tốt hay xấu của sao Thiên Cơ đều có tác động ảnh hưởng tốt hay xấu đến cung Huynh Đệ. Tất nhiên, yếu tố này là phụ luận gia giảm thêm, còn chủ yếu vẫn là xem trực tiếp tại bản cung Huynh Đệ.

Trong câu luận về cung Huynh Đệ ở bài Phát Vi Luận, thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có viết:

Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.

(Cự Môn đến nhị cung - Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).

Tức là, từ cung Mệnh đếm ngược (nghịch số) thì cung thứ hai (nhị cung) chính là cung Huynh Đệ. Cự Môn là sao đại diện tiêu biểu cho Ám tinh, chủ về thị phi tranh chấp bất hòa, cho nên khi Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh dùng làm điển hình cho trường hợp đóng tại cung Bào thì có sự bất hòa, vô tình vô nghĩa, anh em gây tổn thương cho nhau,… Còn có một chính tinh nữa cũng đáng ngại khi đóng ở cung Bào là sao Phá Quân, vì sao này chủ về hao sát khí, không hòa hợp với lục thân,… Riêng về tranh chấp và hình khắc, còn cần phải kể đến Kình Dương, Thiên Hình và Hóa Kị,… Về cô đơn lạnh nhạt còn phải kể đến Thất Sát, Đẩu Quân, Cô Quả,…

Dĩ nhiên, với các ảnh hưởng tiêu cực của các sao kể trên, là rõ nét nhất khi chúng hãm địa và hội họp với các sát ám tinh khác (cần rất chú ý đến tọa bản cung và xung chiếu).

Còn như khi chúng miếu địa thì cũng giảm thiểu tác động xấu. Tuy vậy, chúng ta lại cũng cần lưu tâm đến câu:

Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao; ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.

(Các sao tôn quý bày vào chỗ nhược, thì chủ nhân nhiều gian khổ; ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).

Hai chữ “tiện vị” ở đây chính là nói đến vị trí nằm ở các cung nhược như Huynh Đệ, Nô Bộc, Tật Ách,… nếu như các sao tôn quý như Tử Phủ Nhật Nguyệt Khôi Việt v.v… mà lạc vào các cung này thì tuy là tốt cho cung ấy, nhưng mà lại đồng nghĩa với Mệnh không được hưởng cách tốt, tuy có được sự tương trợ giúp đỡ từ các nhược cung ấy nhưng vẫn không được coi là phúc.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Huynh Đệ, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XVI - Huynh đệ” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

3. Giải đoán cung Phối (Phu Thê cung)

Cung Phu Thê cho biết mối quan hệ của đương số với vợ/chồng của mình, tình duyên thuận lợi hay trắc trở, đến mau hay hay muộn, tình cảm nồng thắm hay lạnh nhạt, có được hạnh phúc hay hình khắc,… Đồng thời cung Phu Thê cũng khái lược về một số nét chính của người phối ngẫu của đương số như là người gần hay người xa tới mức dị tộc (ngoại quốc), có được thành công và tương trợ cho sự thành công của đương số sau khi kết phối hay chăng,…

Cung Phu Thê được liệt vào một trong những cường cung (tức là cung có tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của đương số), bởi vì theo hình thái xã hội và quan niệm của người xưa thì người nữ lấy chồng là sự trao thân gửi phận, mọi việc đều nhất nhất theo chồng, cuộc đời nương tựa vào người chồng,… còn người nam lấy vợ là sự bắt đầu của duy trì nòi giống, đối với nhà giàu, quyền quý còn là sự liên kết thế lực họ tộc để giữ gìn và tăng cường của cải; đối với những nhà nghèo thì người vợ còn lại hậu phương quán xuyến việc gia đình, buôn bán chăm sóc cho chồng ăn học để đi thi cử,… Ngoài ra, các Âm Dương gia còn chủ trương rằng “cô Âm bất sinh, cô Dương bất trưởng”, vợ chồng chính là cặp Âm Dương, chỉ khi kết phối và hòa hợp thì mới phát triển thịnh vượng được.

Người xưa nói “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” vì tông tộc họ hàng cùng với nòi giống là những điểm quan trọng của người xưa khi lựa chọn kết phối, gốc gác giống nòi tông tộc mà có thế lực và thông minh khỏe mạnh (gen tốt) thường được ưu tiên lựa chọn hơn. Nhưng quy tắc đó là áp dụng ở phần xét bên ngoài mà không dùng đến lá số.

Vậy ở trong lá số tử vi có dạng quan niệm tương đồng hay không? Thưa, có. Đó là xem cung Phu Thê phải lưu ý kết hợp đồng thời với cung Phúc Đức, cung Mệnh - Thân. Những dấu hiệu tốt xấu của cung Phúc Đức, cung Mệnh - Thân, của đương số đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tốt xấu ở cung Phu Thê của đương số, các cung ấy mà được tốt đẹp thì có thể giải được những điểm hình khắc, trắc trở ở cung Phối của đương số, ngược lại các cung ấy mà xấu thì cũng là giảm đi sự tốt đẹp ở cung Phối.

Xem cung Phu Thê, cần chú ý đến sao Phá Quân và cặp sao Âm Dương (Nhật Nguyệt), bởi vì Phá Quân là thần chủ quản cung Phu Thê, Tử Tức và Nô Bộc, còn sao Thái Âm là tượng của người vợ trên lá số của người nam, và sao Thái Dương là tượng của người chồng trên lá số của người nữ. Tốt xấu của các sao này đều có ảnh hưởng đến tốt xấu của cung Phu Thê. Tất nhiên, đây chỉ là yếu tố gia giảm, chủ yếu vẫn phải xét kỹ ở bản cung Phu Thê.

Trường hợp mà trên lá số người nam lại vừa có tượng người vợ là Thái Âm miếu vượng đóng ở cung Thê, đồng thời hội hợp với Văn Xương hay Văn Khúc thì quá tốt, chúng ta hãy xem ông Tử Vân bình luận:

"Thái Vi phú":

Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế

(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).

Hay là như:

Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị

(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).

Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.

Trở lại câu luận về cung Phu Thê ở bài Phát Vi Luận bên trên, tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có viết:

Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;

(Sát tinh lâm vào tam vị - Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ).

Tức là, từ cung Mệnh, đếm ngược (nghịch số) đến vị trí thứ 3 thì là cung Phu Thê. Nếu như các hung sát tinh tụ tập mà lại không có sự chế hóa (xem phối hợp với cả cung Mệnh và Thân của đương số) thì đương nhiên sẽ gây ra những bất lợi đối với vấn đề tình duyên đôi lứa của đương số. Như, chậm muộn dở dang, hoặc tình duyên có sự ngang trái bẽ bàng, hoặc sau khi kết phối thì mối quan hệ vợ chồng không được hòa thuận hạnh phúc, hoặc vợ chồng chẳng tương trợ gì được cho nhau trong sự thăng tiến tiền tài sự nghiệp, thậm chí còn gây trắc trở,…

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Phu Thê, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XV - Thê Thiếp hay Phu Quân” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

4. Luận giải cung Tử Tức

Cung Tử Tức cho biết mối quan hệ của đương số với con cái của mình, tình cảm có gắn bó thâm sâu hay không, có lạnh nhạt thờ ơ hay không, con cái có hiếu thuận với cha mẹ (tức vợ chồng đương số) hay không… cung Tử Tức cũng cho biết những thông tin để có thể dự đoán đương số có con hay không, con cái đầy đàn có trai có gái hay là hiếm muộn hay là tuyệt tự, có con trai nhiều hơn hay con gái nhiều hơn, có con dị bào hay không,…

Đối với Nữ mệnh thì Tử Tức là cường cung đã đành, đối với Nam mệnh thì Tử Tức được liệt vào số các cung nhược nhưng mà Thái Thứ Lang đã dặn lại chúng ta không nên coi nhẹ cung Tử bởi vì sách nói:

Mệnh hung nhi cát do hữu Tử cung cát;

Mệnh cát nhi hung do hữu Tử cung hung.

(Mệnh có hung tượng nhưng được cát lợi tốt lành là do có cung Tử Tức cát lành; Mệnh cát nhưng cuộc đời vẫn gặp những việc hung là do cung Tử Tức có hung tượng).

Đây là một điểm quan trọng để nhận thấy rằng cung Tử Tức có vai trò ảnh hưởng không nhỏ đến Mệnh của đương số, chẳng khác gì một số môn phái khác xem trọng trục trực giao Mệnh-Di và Điền-Tử (được coi là 1 dạng “tứ chính”) trong khi luận đoán mệnh lý.

Bởi vậy, khi xem Mệnh cũng cần lưu ý đến việc xem đồng thời cung Tử Tức, ngược lại thì khi xem Tử Tức cũng cần lưu ý xem đồng thời cung Mệnh. Bên cạnh đó cần phải xem kỹ cát hung ở cung an Thân và cung Phúc Đức, bởi vì chúng đều có ảnh hưởng tốt xấu qua lại liên quan chặt chẽ tới nhau. Phúc Đức và Thân đều là những nơi thể hiện khả năng duy trì và tiếp nối dòng dõi giống nòi. Người xưa nói, con cái là quả phúc trời cho, bởi vậy cho nên có đông con nhiều cháu, có con trai để thờ tự tổ tiên sau này và tiếp nối dòng dõi thì mới coi là phúc.

Bên cạnh đó, cũng cần xem cung Phu Thê để phối hợp luận đoán, bởi vì vợ chồng thê thiếp chính là đối tác phối ngẫu của đương số trong việc sinh con đẻ cái, nếu như cung Phu Thê có hung tượng thì cung Tử Tức cũng bị ảnh hưởng. Giả như, khi xét thấy cung Phu Thê có dấu hiệu của sự tan vỡ chia lìa, đồng thời xét thấy cung Tử Tức lại có dấu hiệu của việc có con dị bào, tức thì nó là sự phối hợp tín hiệu thông tin để đưa ra luận đoán có cơ sở hơn rằng đương số dễ bị trục trặc về đường hôn nhân (vợ chồng ly hôn, hoặc vợ chồng có người chết sớm, đi đến sự kết phối với người khác và có hai dòng con (khác mẹ / khác cha).

Xem cung Tử Tức còn cần lưu ý tới sao Phá Quân vì nó là thần chủ quản của cung Tử Tức, vị trí của Phá Quân có cát hung như thế nào đều ảnh hưởng tương ứng liên quan đến cát hung của cung Tử Tức (nếu ai đã từng đọc bài dịch “Chẳng phải hồng hạnh cũng xuất tường” của Durobi thì sẽ thấy ông Tử Vân luận Tử Tức thì ngay lập tức nhìn vào vị trí của Phá Quân để kết hợp cát/hung tượng cho việc đoán về con cái của đương số).

Trong bài phú Phát Vi Luận ở trên thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:

Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;

(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già)

Tức là trong cung Tử Tức mà có các sao chủ về hình khắc và các sát tinh tụ tập tọa thủ và chiếu về thì có mà có được con cái chăm sóc lúc về già. Bởi vì đã hình khắc thì thứ nhất hiếm hoi hoặc tuyệt tự, nhẹ hơn thì chia lìa ly tán nên con cái không thể ở cùng với đương số, nhẹ hơn nữa thì giữa đương số với các con không hòa hợp nên tình cảm lạnh nhạt chẳng thể gần nhau. Đối với việc luận đoán về phân loại giai tầng xã hội thì có thể lấy giới tăng nhân tu sĩ làm điển hình với sự hình khắc về lục thân, trong đó có sự hình khắc con cái, bởi vì những người thuộc giới này đa phần đều coi là số không có con hoặc không gần gũi con hoặc coi tình cảm cha con riêng tư như phù du, cũng có những người tuy không xuất gia chính thống như cũng chẳng thích vướng bận về đường con cái. Cho nên, khi đoán số, cần nắm rõ lý luận để xét xem đương số có xu hướng như thế nào, nhìn vào các cung lục thân như Tử Tức, Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Phu Thê mà đều thấy hình khắc thì đó là xu hướng của mệnh tạo cô đơn về già hoặc là có thiên hướng đi tu đạo.

Xem cung Tử Tức cần lưu ý đến tính chất âm dương của cung, tính chất Nam Bắc đẩu của các tinh diệu tọa thủ và hội chiếu. Nếu như có nhiều Nam đẩu tinh tụ tập ở cung Tử Tức mà lại ở trên cung Dương thì sẽ có nhiều con trai, số con trai lớn hơn số con gái trên tổng số con. Nếu như có nhiều Bắc đẩu tinh tụ tập ở cung Tử Tức mà lại là ở cung Âm thì sẽ có nhiều con gái, số con gái lớn hơn số con trai trên tổng số con. Nếu như hai sao Âm Dương (Nhật Nguyệt) mà đóng vào cung Tử Tức thì cần phải xét tính âm dương ở thời gian sinh của đương số để luận đoán xem có hòa hợp hay không. Giả như Thái Dương đóng cung Tử Tức mà lại hãm, trong khi đương số lại sinh ban ngày thì là hung tượng vì âm dương tính không hòa hợp, gây ra dẫn đến sự hiếm muộn hoặc là con cái khó nuôi, sau này cũng khó ở gần,…

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tử Tức, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XIV - Tử Tức” và mục "XIX - Phụ Luận về Tử Tức" sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

5. Luận giải cung Tài Bạch

Trong hai chữ Tài Bạch, thì chữ Tài nghĩa là tiền bạc, của cải, đủ để người ta hiểu sơ lược về ý nghĩa của cái tên gọi. Còn chữ Bạch nghĩa là lụa là gấm vóc, trong xã hội thời xưa thì đây là một loại hàng hóa có giá trị rất cao, người dùng nó thì thể hiện được vị trí giai tầng của mình, đồng thời nó cũng là tặng phẩm của vua ban cho triều thần hoặc là vật trân quý của những nước chư hầu đem đi cống nạp cho nước lớn,…

Cung Tài Bạch là một trong số các cung quan trọng vào hàng bậc nhất trên lá số, bởi vì ngoài chức năng mà nó đảm nhiệm về phương diện cung chức thì cung Tài Bạch nằm ở vị trí tam hợp vĩnh viễn với cung Mệnh nên những sao tọa thủ ở trong cung Tài Bạch có ảnh hưởng rất mạnh suốt cả cuộc đời con người ta thông qua sự hợp chiếu vào cung Mệnh. Nói cách khác, tốt xấu của cung Tài Bạch có ảnh hưởng trực tiếp đến tốt xấu của cung Mệnh và ngược lại.

Chức năng của cung Tài Bạch là cho biết mối quan hệ của đương số với tiền bạc, tài sản, của cải vật chất trong suốt cuộc đời của mình; cung Tài Bạch còn cho biết hình thức thụ hưởng của cải của người ta là thuộc dạng nào, thông qua lương lậu bổng lộc, qua kinh doanh buôn bán, qua sản xuất trồng trọt, hay được thừa hưởng gia tài từ người khác... Xưa nay, có nhiều người nghĩ đơn giản là xem sự giàu hay nghèo của đương số là cứ nhìn ngay vào cung Tài Bạch xem nó như thế nào, nếu thấy hội tụ nhiều sao chủ về tài lộc và các cát tinh, xa lánh được được các sát hung tinh, Kị tinh, hao bại tinh,... thì liền đoán rằng đương số giàu có. Kỳ thực, điều đó đúng nhưng mà chưa đủ, bởi vì sự giàu nghèo của đương số trong mối quan hệ với tiền bạc, tài sản, của cải vật chất trong suốt cuộc đời không đơn thuần chỉ như vậy, mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác có sự đan xen phức tạp với nhau.

Đó là lý do mà các cụ vẫn thường truyền dạy rằng, xem về giàu nghèo của đương số cần phải chú trọng xem đồng thời đến các cung Phúc Đức, Mệnh Thân và Điền Trạch.

Như, cung Phúc Đức mà tốt đẹp thì mới có phúc phận, có lương duyên để được hưởng những ảnh hưởng tốt đẹp về tài lộc ở cung Tài Bạch; dẫu cho cung Tài Bạch khi đó có mờ ám xấu xa thì vẫn có ý chí thôi thúc đương số lăn lộn trong gian khó để kiếm tiền, sẵn sàng nắm bắt những cơ hội (cơ duyên) trong công việc sản xuất cũng như kinh doanh để kiếm được tiền của. Tức là, vai trò của cung Phúc Đức đối với vấn đề tiền bạc nắm giữ vị trí ảnh hưởng về tinh thần tư tưởng và quan niệm của đương số đối với của cải vật chất, có khát khao kiếm tiền hay không; cung Phúc Đức cũng cho biết đương số có nhiều cơ duyên để kiếm tiền hay không.

Vai trò của cung Mệnh Thân đối với vấn đề giàu nghèo cũng có một phần nào gần giống ở phương diện tư tưởng và quan niệm của đương số về tiền tài vật chất. Thí dụ như người mà Mệnh Thân có cách cục mộ đạo, có xu hướng theo tăng đạo (Đồng Lương Không vong, Cơ Lương Không Vong, Tử Tham mão dậu + Không Vong,…) thì tư tưởng của họ đối với vấn đề tiền bạc vật chất đương nhiên sẽ không có nhiều khao khát gì.

Cung Điền Trạch được quan niệm vừa đồng thời là ruộng vườn để tạo ra của cải từ việc trồng trọt và cũng vừa là cái nhà để chứa tài sản của cải từ mọi hoạt động trồng trọt trên ruộng vườn của mình hay thông qua kinh thương mà có. Bởi vậy, có một số trường phái gọi cung Điền Trạch là Khố (cái kho), là nơi ẩn tàng của tiền tài vật chất.

Chúng ta sẽ rõ hơn nữa sự liên quan phối hợp của các cung này khi xét đến Phú Cục (nhóm các cách biểu hiện sự giàu có), vì nó được nhấn mạnh là xem ở các cung Mệnh, Điền Trạch, Tài Bạch.

Giải đoán cung Tài Bạch còn cần lưu ý đến các sao chủ về tài lộc như Vũ Khúc (hóa khí là Tài, thần chủ quản cung Tài Bạch), Thái Âm (hóa khí là Phú, thần chủ quản cung Điền Trạch) Lộc Tồn (thiên lộc), Thiên Mã (động lực), Hóa Lộc, Thiên Phủ,… Tốt xấu của những sao này đều có ảnh hưởng đến sự thăng giáng về tiền của vật chất đối với đương số, kể cả khi chúng không nằm ở cung Tài Bạch. Ví dụ như trường hợp Lộc Tồn và Thiên Mã gặp phải Không Vong, sách gọi là cách “Lộc đảo, Mã đảo”, người có cách này vẫn có thể giàu có nếu Mệnh Điền Tài đều cường vượng sáng sủa, nhưng thế nào trong đời cũng có lần gặp sự phá bại tiêu tán rất nhiều tài sản, đó là khi hạn xấu mà có thêm Thái Tuế hội hợp Không Kiếp.

Các sao thuộc nhóm Tài tinh thì kị nhất là gặp Không Vong, sau đó là các sát hung tinh, rồi tới các sao Phá Hao Bại Tuyệt. Cho nên, trong phần luận cung Tài Bạch ở bài phú Phát Vi Luận thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:

Chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.

(Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).

Đây là một dạng cách luận tổng quát, vì tiền bạc tụ tán vô thường thì không có nghĩa là không thể giàu hoặc là không kiếm được tiền. Chỉ có điều tiền bạc kiếm được phải vất vả mới có và khó mà tích lũy thành cự phú mà thôi, hoặc giả có thành cự phú thì cũng rất dễ bị nạn khiến cho có phen phá bại tiêu tán.

Bởi vậy còn nói:

Tài cư Không Vong ba tam lãm tứ.

(Tài tinh, tài cung, mà có Không Vong thì muốn được 3 thì phải làm 4).

Ý nói rằng vất vả, làm cật lực thì cũng vẫn có tiền tài, nhưng so với người khác làm 1 hưởng 1 thì trường hợp này lại phải làm gấp bội phần mới được hưởng được 1 phần.

Cung Tài Bạch ngoài các sao thuộc nhóm Tài tinh thì còn rất ưa các sao thuộc nhóm tĩnh và các sao như Cô Thần, Quả Tú, Mộ, Hóa Kị khi đắc địa ở tứ Mộ cung,… vì nó đều chủ tính chất vun vén tích lũy và có cơ hội được thừa hưởng của cải tiền bạc vật chất.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tài Bạch, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XIII - Tài Bạch” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

6. Luận giải cung Tật Ách

Cung Tật Ách cho biết tổng quát khái lược về sức khỏe của đương số, trong đó bao gồm cả các Bệnh mà đương số dễ mắc phải, các Tật mà đương số có thể sẽ có (ví dụ tật nói ngọng, nói lắp,… hoặc cái tính kiêu ngạo, hoặc hay nói tục chửi bậy, cũng được coi là tật xấu,.. hoặc người nào có tính táy máy tắt mắt, thấy cái gì của người khác mà thích là liền nhặt lấy mang về chơi, chẳng hỏi han mượn chủ nhân gì cả, dân gian thường gọi là cái tật ăn cắp vặt,… là thuần túy về tật chứ không coi là bệnh), các khiếm khuyết trên cơ thể vừa thuộc Bệnh vừa thuộc Tật mà thông qua các Tai Ách (hoặc do bẩm sinh) mà đương số có thể bị như điếc, lác, mù, què,… Cung Tật Ách cũng cho biết khái lược về một số điểm thuộc tính cách của đương số (ví dụ như thích ăn diện, thích khoe khoang,...).

Có nhiều Tật biểu lộ ra ngay bên ngoài hình tướng của đương số, vì thế xem cung Tật Ách cần rất lưu ý đến cung xung chiếu vào nó là Phụ Mẫu, ngoài ý nghĩa xung chiếu thì cung Phụ Mẫu còn được gọi là cung Tướng Mạo (do ảnh hưởng của các môn tiền thân của môn Tử Vi Đẩu Số như môn Thất Chính Tứ Dư, Thập Bát Phi Tinh) và nó cũng được lý luận rằng thể chất và sức khỏe của đương số là chịu ảnh hưởng rất nhiều từ di truyền cũng như sự chăm sóc của cha mẹ đương số. Bên cạnh đó, tâm sinh lý của đương số ngay từ bé cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ tâm trạng cũng như cuộc sống của cha mẹ có hạnh phúc hay không.

Ngoài những Tật lộ rõ ra bên ngoài thì cũng có những Tật thuộc dạng kín, khó nhìn thấy bằng mắt thường, mà phải do quan sát tập tính thói quen với quá trình lâu dài, hoặc là ở những nơi kín đáo trên cơ thể mà đương số nói ra,… những cái này thường được gọi là Ám Tật.

Xem cung Tật Ách còn cần lưu ý đến cung Phúc Đức, nếu cung Phúc Đức tốt đẹp sáng sủa thì có thể được thừa hưởng âm đức của tổ tiên mà cứu giảm được bệnh tật tai ách phải gánh chịu. Đồng thời cần kết hợp xem Mệnh Thân cung có tốt đẹp hay không, nếu như có các Quý tinh, Phúc Ấm tinh, các sao giải nạn trừ hung thì cũng đều có khả năng giảm thiểu bệnh tật tai ách ở cung Tật Ách. Riêng trường hợp cung Mệnh mà nhị hợp vào cung Tật Ách, như đã nói ở phần an Mệnh theo giờ Quan Sát trong phụ luận cho cung Mệnh, đây là một trường hợp khá đặc biệt vì chỉ khi Mệnh cung an ở Mão Dậu mới gặp hoàn cảnh này. Tam hợp Cục của Mệnh sinh xuất cho Tam hợp Cục của Tật Ách, khiến cho đương số gần như suốt cuộc đời sống cứ phải trăn trở đau đáu về một loại bệnh hay một cái tật nào đó, như một phần định mệnh của đời mình. Có thể người ta bị bệnh hay ốm đau thường xuyên, nhưng cũng có thể người ta bị một cái tật nào đó ám ảnh cả đời (như sống trong hoài niệm, sống với nỗi sợ về sự đổ vỡ nào đó, sợ bị thất bại, sợ bị mất danh tiếng với người thân và những người xung quanh,…), kiểu như vậy bị coi như Mệnh có phần bị lệ thuộc vào Tật Ách nên theo phương thức xoay cung bàn thì cung Mệnh nằm ở vị trí cung Nô của cung Tật Ách.

Trong phần luận cung Tậc Ách ở bài phú Phát Vi Luận thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:

Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;

(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ)

Tức là dùng cái lý tổng quát của việc sát tinh hạng nặng xâm phạm vào cung Tật Ách thì có thể gây ra những bệnh tật rất nặng. Thời xưa, bệnh tuy cũng có nhiều nhưng không phân chia tỉ mỉ như ngày nay, và khi đó tứ chứng nan y vẫn là mù què câm điếc. Còn ngày nay thì y học phát triển, từ đó không còn là vấn đề nan giải nhất đối với nền y học hiện đại nữa. Trong Tử Vi thì cụ thể khi Kình Đà xâm phạm Tật Ách cung thì chưa chắc đã đúng là gây ra đui mù, mà nó có thể gây ra những bệnh tật nặng khác hoặc gia tăng cường độ đối với các tai ách mà đương số mắc phải trong đời.

Bởi vậy, khi luận cung Tật Ách, cần phải nắm cho rõ hình tượng của các sao tương ứng với các bộ phận trên cơ thể con người. Hễ gặp sát hung tinh, ám tinh, thì có thể gây ra những hiện tượng bệnh tật tương ứng với tính chất của chúng trên cơ thể đương số.

Cung Tật Ách rất ưa có Không Vong án ngữ, vì chúng giúp cho đương số tiêu giảm tai ách, có bệnh nhanh khỏi,… Bên cạnh đó, cung Tật Ách cũng rất ưa các sao Phúc Tinh và những bộ sao cứu giải như Đồng Lương (đắc miếu), Thiên Quan Thiên Phúc, Ân Quang Thiên Quý, Thiên / Nguyệt Đức, Tam Giải (Thiên / Địa Giải và Giải Thần), Hóa Khoa,… vì chúng đều là các sao trợ giúp trừ hung giải bệnh tật tai ách.

Có một số sao cũng có tính chất giải trừ bệnh tật tai ách, nhưng nếu gặp nhiều sát tinh quá thì lại khiến cho bệnh tật tai ách kéo dài liên miên mãn tính, đó là những sao như Lộc Tồn, Tràng Sinh,… Lại có những sao vốn được người ta cho là cát tinh, nhưng khi luận về Tật Ách thì nó mang thuộc tính trung lập và thường chủ về cường độ ảnh hưởng, như Hóa Quyền và Tả Hữu, nếu những sao này gặp nhiều cát tinh thì sức cứu giải rất nhanh và mạnh, nhưng nếu nó gặp các sát hung tinh thì càng làm cho bệnh tật tai ách thêm nghiêm trọng khẩn cấp.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tật Ách, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XII - Tật Ách” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

Khám bệnh qua Lá Số Tử Vi

A. Kiến thức tối giản về TẠNG PHỦ

A1. NGŨ TẠNG

Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.

A1.1. Tâm (Tim)

Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt động về thần trí, huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.

Tâm thuộc Hoả còn sinh Tỳ thổ, khắc Phế kim, và có quan hệ biểu lý với Tiểu Trường (ruột non) hỏa.

A1.2. Can (Gan)

Can chủ về tàng huyết, chủ về sơ tiết, chủ cân (gân, cơ, khớp), khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng tay, móng chân.

Can thuộc Mộc còn sinh Tâm hoả, khắc Tỳ thổ, và có quan hệ biểu lý với Đảm (mật) mộc.

A1.3. Tỳ (Lá lách)

Tạng tỳ ở trung tiêu, chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thống huyết, chủ cơ nhục và tứ chi, khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ở môi.

Tỳ thuộc Thổ còn sinh Phế kim, khắc Thận thuỷ có quan hệ biểu lý với Vị (dạ dày) thổ.

A1.4. Phế (Phổi)

Phế chủ hô hấp, chủ khí, có tác dụng tuyên phát và túc giáng (đưa đẩy khí lên xuống), khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông)

Phế thuộc Kim còn sinh Thận thuỷ, khắc Gan mộc và có quan hệ biểu lý với Đại Tràng (ruột già) kim.

A1.5. Thận

Thận chủ về tàng tinh, chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ nạp khí, chủ thuỷ, khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc

Thận thuộc Thuỷ còn sinh ra Gan mộc và khắc Tâm hoả, có quan hệ biểu lý với Bàng Quang thủy.

A2. LỤC PHỦ

Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đảm, vị, tiểu đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.

A2.1. Đảm (mật) - Mộc

Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ nhân nói: “khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật giúp cho việc tiêu hoá đồ ăn. Chất mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thường xuất hiện chứng vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.

Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ về quyết đoán.

Can và đởm có quan hệ biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ sở của lòng dũng cảm, tinh thần giám nghĩ giám làm. Các bệnh về can đởm hay phối hợp với nhau.

A2.2. Vị (dạy dày) - Thổ

Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau, đều giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.

Khí của tỳ vị gọi tắt là “vị khí” dùng để tiên lượng sự phát triển tốt hay xấu của bệnh và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: “vị khí là gốc của con người”, “còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết”.

A2.3. Tiểu Tràng (ruột non) - Hỏa

Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh, giáng trọc. Thanh (chất trong) là chất tinh vi của đồ ăn được hấp thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi dưỡng toàn thân,cặn bã sẽ được đưa đến bàng quang để bài tiết qua ngoài. Trọc (chất đục) là cặn bã của đồ ăn đựơc tiểu trường đưa xuống đại trường.

A2.4. Đại Tràng (ruột già) - Kim

Đại trường chứa đựng và bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.

A2.5. Bàng Quang - Thủy

Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà vạư phối hợp của tạng thận.

Nếu sự hoá khí của thận không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái dắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự chủ v.v…

A2.6. Tam Tiêu

Tạm tiêu gồm Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống tâm vị dạ dày có tạng tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày xuống hậu môn có tạng can và thận.

Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn, ở thượng tiêu: Phế chủ hô hấp, phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được tâm khí đưa đi toàn thân; ở trung tiểu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước lên phế, ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại tiện và tiểu tiện.

Người ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.

B. Tiên thiên Bẩm thụ chi khí

Con người ta được bẩm thụ cái khí của Trời Đất trong thai kỳ và được đánh dấu ngay tại mốc thời điểm sinh ra trên đời. Mệnh lý Tứ Trụ dùng 8 chữ mà diễn hóa mối quan hệ sinh khắc hợp hóa hình hại, để lập nên sơ đồ mô phỏng số mệnh của nhân sinh, trải qua cả ngàn năm nay đã có những nghiệm chứng kỳ diệu. Mệnh lý Đẩu Số vốn coi trọng Thái Âm Lịch và mối quan hệ của các tinh đẩu hơn, nhưng tại Địa Bàn vẫn còn những thông tin về Thái Dương Lịch thông qua Bát Tự mà đa phần người ta lãng quên khai thác.

Mệnh lý gia, lương y Khiên Ngưu Tử đã tổng kết rất giản dị về mối quan hệ giữa ngũ hành của các Phủ Tạng và 4 Thiên Can trong Tứ Trụ để mà chẩn đoán sơ lược về sức khỏe của người ta. Phép này đã được truyền cho nhiều bác sĩ Đông Tây Y để có thêm thông tin tham khảo bệnh tại các bước Vọng (trông), Văn (nghe), Vấn (hỏi) trước khi tới bước tối hậu là Thiết (xét mạch). Nay, ta nhắc lại về Ngũ Hành của Thiên Can và đem áp dụng vào lá số Tử Vi đơn giản như sau:

Giáp, Ất thuộc Mộc

Bính, Đinh thuộc Hỏa

Mậu, Kỷ thuộc Thổ

Canh, Tân thuộc Kim

Nhâm, Quý thuộc Thủy.

B1. Xem 4 Thiên Can trong Bát Tự gồm những chữ gì. (Chú ý là Bát Tự phải xác định theo Thái Dương Lịch, tức là theo Tiết Khí).

Ví dụ 1: Kỷ Tị - Ất Hợi - Ất Hợi - Bính Tuất

Thì 4 Can chính là Kỷ, Ất, Ất, Bính.

Ví dụ 2: Kỷ Tị - Tân Mùi - Nhâm Thìn - Ất Tị

Thì 4 Can chính là Kỷ, Tân, Nhâm, Ất.

B2. Xem trong 4 Can ấy bất cập (không đủ) ở Hành gì.

Như trong vd1 thì thấy vắng mặt hành Kim (không có Canh / Tân), và vắng mặt hành Thủy (không có Nhâm / Quý).

Còn trong vd2 thì chỉ vắng mặt hành Hỏa (không có Bính / Đinh).

B3. Đối chiếu Ngũ Hành bất cập với Phủ Tạng và dự đoán.

Như vd1 thiếu Kim, thì tương ứng với các Phủ Tạng là Phế và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở phổi, hệ hô hấp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

Ngoài ra, vd1 còn thiếu Thủy, tương ứng với các Phủ Tạng là Thận và Bàng Quang sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở thận, bàng quang, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

Như vd2 thiếu Hỏa, tương ứng với các Phủ Tạng là Tim và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở tim mạch, huyết áp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.

B4. Đối chiếu Ngũ Hành thái quá (dư thừa) với Phủ Tạng và dự đoán.

Ví dụ 3: Giáp Tuất - Ất Hợi - Giáp Thìn - Quý Dậu

Thì tại 4 Can thấy Mộc thái quá (Giáp, Ất, Giáp) khiến cho Gan Mật dễ có vấn đề. Đồng thời bất cập ở hành Thổ (vắng mặt Mậu, Kỷ), dĩ nhiên thổ tại Tỳ Vị đã yếu lại còn bị Mộc vượng đến tương khắc thì loại phủ tạng dễ phát sinh bệnh nhất ở người này là Dạ dày, Lá lách.

B5. Đối chiếu với các tinh đẩu tại Tật Ách cung mà đưa ra kết luận cuối cùng.

Như người mà thái quá ở hành Kim và bất cập ở hành Mộc thì dự đoán sơ lược được Phổi, hệ hô hấp, xương khớp, Đại Tràng, gan mật sẽ có vấn đề.

Khi đối chiếu với cung Tật Ách nếu thấy Nhật / Nguyệt hãm hoặc hội sát tinh thì có thể kết luận là mắt kém, bệnh ở Gan mật khai khiếu ra mắt.

Khi đối chiếu với cung Tật Ách người này, nếu thấy Song Hao thì có thể kết luận Đại tràng có vấn đề, bộ máy tiêu hóa rất kém.

Lưu ý 1: nếu Tên gọi của đương số đồng hành với loại Ngũ Hành bất cập, thì được coi là đã có sự bổ sung, sẽ làm giảm khả năng phát sinh bệnh từ các phủ tạng tương ứng.

Lưu ý 2: khi đương số còn ở tuổi thanh niên, sinh lực sung mãn thì những biểu hiện bệnh ở các phủ tạng sẽ khó để nhận ra / chưa phát tác.

Lưu ý 3: việc dự đoán này chỉ là một hình thức tham khảo thông tin, những vấn đề về sức khỏe và bệnh tật thì nên tới các cơ sở khám chữa bệnh chuyên sâu để xác định.

7. Luận Giải cung Thiên Di

Cung Thiên Di cho biết mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…

Nếu ta đứng ở vị trí của Di thì tiến trình và mối quan hệ của các cung bên cạnh cung Di cũng gần như tương tự và ngược lại mối quan hệ ở Mệnh: Khi ta ở bên ngoài xã hội, những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới ta nhất chính là Nô Bộc và Tật Ách, người phò trợ giúp đỡ quan tâm tới ta chính là bạn bè đồng nghiệp (tương tự như Huynh Đệ đối ta còn bé ở Mệnh), bệnh tật có thể hành hạ làm tổn thương ta có thể khiến cho ta vong mạng (tương tự như Phụ Mẫu đã sinh hạ và nuôi dưỡng khi ta còn bé ở Mệnh).

Lại nói, khi quan niệm Mệnh cung là nơi ta ra đời phát sinh mệnh vận thì sau 60 năm cuộc đời sẽ đi đến gặp các sao Thương Sứ để rồi tới cung Di sẽ là nơi ra đi an nghỉ vĩnh hằng.

Nói chung Thiên Di mang ý nghĩa về mối quan hệ ngoại cảnh đối với đương số, nhưng ngoài ý nghĩa cung chức thì sự bố cục ở vị trí đối xung vào cung Mệnh mang ý nghĩa rất lớn đối với việc luận giải lá số.

Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:

Đối chiếu hề tường hung tường cát,

Hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.

(Cung đối chiếu cho biết hung biết cát,

Cung hợp chiếu cho biết vinh hoa hay ti tiện).

Sau đó khi luận cung Thiên Di thì tiên sinh lại nói tiếp:

Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mịch.

(Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).

Ta có thể nhận thấy ngay rằng, ở vị trí đối xung vào cung Mệnh nên cung Thiên Di ảnh hưởng trực tiếp cát hung đến cung Mệnh với tác động rất mạnh mẽ rõ rệt. Đồng thời nó cũng biểu thị ý nghĩa cuộc đời con người không chỉ có bó hẹp ở môi trường trong nhà trong gia đình mà còn phải gắn liền với những mối quan hệ bên ngoài xã hội.

Con người ta muốn thành công thì phải học khôn, ở trong gia đình và trường lớp dạy dỗ chưa đủ, cần phải học ở bên ngoài xã hội - trường đời. Cho nên tục ngữ ta có câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, và cổ nhân cũng nói “đọc xong một cuốn sách, cần phải đi ra bên ngoài mười dặm” đây cũng là ý nghĩa của câu “học phải đi đôi với hành”. Mà muốn biết khi đi ra bên ngoài lành dữ thế nào thì phải coi ở cung Thiên Di. Nếu như cát tinh phù tá tụ hội, quý nhân tinh xum họp, thì nhất định đi ra bên ngoài sẽ toàn gặp được hanh thông may mắn, được người nâng đỡ ủng hộ, dẫu có gặp nguy cũng có người cứu giúp thành an, những người được yếu tố này đặc biệt dễ thành công. Còn ngược lại, nếu như Kị ám hung sát tinh tụ tập mà chẳng có cát tinh thì đi ra bên ngoài thường vướng phải những thị phi khẩu thiệt, đụng chuyện đã thiếu người giúp đỡ lại còn họa vô đơn chí khiến cho lâm vào bầm dập trong các tai các nạn. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, những người có cung Di xấu không có nghĩa là họ không thể học khôn ở bên ngoài được và khó thành công cũng không có nghĩa là họ sẽ không thể thành công. Bởi vì chúng ta biết rằng, ở trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt của môi trường thì nó sẽ rèn luyện cho con người ta những trải nghiệm, rút ra được những bài học xương máu để mà khôn, sau mỗi lần vấp ngã thì ai dám đứng lên vượt qua được trở ngại thì nhất định sẽ thu được thành tựu. Chỉ có những người không dám vươn lên, không dám đối đầu với khó khăn mới bị sát hung tinh vùi dập cho không thể ngóc đầu lên được nữa mà thôi. Đôi khi người ta phải biết cám ơn các hung sát tinh, vì nó đem lại cho người ta những sự xung kích mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn.

Cung Thiên Di, khi xét đối với mốt sự kiện nhất định nào đó trong vận hạn, người ta vẫn thường lấy coi làm đối phương của đương số (Chủ ở Bản cung, Khách/đối phương ở xung cung), thí dụ như trong việc tỉ đấu cạnh tranh hoặc là ký kết hợp tác thì cũng đều lấy cung đối xung để mà xét xem cát hung như thế nào. Bởi vậy mà sách nói:

Đối phương cát vị chi ngưỡng diện Xuân phong

Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.

(Cung đối xung mà có cát tinh tụ hội thì như là ngẩng mặt đón gió Xuân tươi mát,

Cung đối xung mà có hung sát tinh thì chẳng khác gì cây gậy hiểm ác chực chờ đập xuống đầu).

Vì vai trò rất quan trọng của vị trí đối với cung Mệnh mà hầu như tất cả các phép luận từ xưa tới nay trong bộ môn Tử Vi đều xét ngay đến cung Thiên Di sau khi xét Mệnh Thân, Phúc Đức:

Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,

phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.

(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi ngay sau đó khảo cứu kỹ Thiên Di,

Phân ra Thể - Dụng với đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp).

Đệ nhất biện tân chủ chi phân,

động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,

chủ tân canh điệp vô câu,

chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,

tân bất năng đối, hà túc thủ tai!

(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,

Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,

Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,

Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,

Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)

Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại.

Thứ khán Thiên Di, vi động tĩnh nội ngoại chi chủ.

Tài Bạch Quan Lộc, định tam hợp phù trì cát hung.

(Trước xem Phúc Đức an bài

Tinh thần tư tưởng, tổ tông ban vì.

Thứ đến xem ở Thiên Di

Tĩnh động, chủ khách, phân ly trong ngoài.

Tài Bạch, Quan Lộc cả hai

Một vòng tam hợp an bài cát hung).

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Thiên Di, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XI - Thiên Di” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

8. Luận giải cung Nô Bộc

Cung Nô Bộc cho biết mối quan hệ của đương số đối với bạn bè, đồng nghiệp, những người trợ thủ giúp việc (chủ yếu là những người dưới quyền, nhưng đôi khi cũng ứng vào cấp trên - lúc này thường là ứng với các sao quý nhân).

Cổ nhân sắp đặt bài bố cung chức Nô Bộc rất khéo léo ở vị trí giữa và giáp với cung Thiên Di, cung Quan Lộc, là hàm ý nhấn mạnh đến mối quan hệ liên kết giữa tính chất sự kiện của các cung này với nhau. Cho nên Phú có câu:

Lộc cư Nô Bộc, túng hữu quan dã bôn trì,

(Lộc cư Nô thì tuy làm quan vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi)

Điều này chủ yếu là do bố cục của tinh đẩu với các cung đó thôi, vì khi Lộc Tồn cư Nô Bộc thì Kình Đà xâm phạm vào Thiên Di vào Quan Lộc, đồng thời 2 sát tinh này cùng chiếu vào Mệnh.

Nói như vậy cũng không có nghĩa là cung Nô Bộc chỉ đề cập đến những đối tượng ở bên ngoài, ngược lại nó còn bao hàm đến các đối tượng ở trong nhà, như vợ, thiếp, quản gia, giúp việc,… Ngày xưa, người phụ nữ khi xưng hô một cách khiêm cung thường xưng mình là “Nô gia”, bên cạnh đó, Phá Quân là thần chủ quản cung Phu Thê cũng kiêm quản luôn cung Nô Bộc. Điều này giải thích tại sao có quan điểm cho rằng, khi xét đến người vợ thứ hai trở đi thì xét ở cung Nô Bộc, tuy nhiên đó cũng chỉ là một quan niệm bổ túc cách xem cho cặn kẽ hơn, chứ kỳ thực thì dù là người vợ thứ mấy thì cũng đều xem cát hung ở cung Phu Thê gốc và lưu Phu Thê theo các đại tiểu hạn là chính.

Xem cung Nô Bộc để biết những đối tượng có tương trợ giúp đỡ đắc lực cho đương số hay không, có kề vai sát cánh bền lâu chung thủy hay không, có oán thán trách móc hay phản trắc gây họa cho đương số hay không,…

Từ cung Nô Bộc, cũng phần nào cung cấp cho chúng ta thông tin về nghề nghiệp của đương số. Ví dụ như cung Nô Bộc của người làm giáo sư thường khá sáng sủa nhiều cát tinh ứng với học sinh sinh viên có học vấn. Cung Nô của một người mà có nhiều sát tinh thì cũng có thể người đó làm quản giáo của một trại giam, hay cũng có thể là làm bác sĩ, ứng với nô bộc là phạm nhân hay bệnh nhân của các vị ấy.

Vị trí của cung Nô Bộc, tốt nhất đừng nên ở vào vị trí lục hại với cung Mệnh, vì nó thường khiến cho đương số chịu nhiều thiệt thòi, phải nhường nhịn cho các đối tượng nô bộc, bạn bè đồng nghiệp.

Một cung Nô Bộc tốt thì nên có các cát tinh với các quý nhân tinh, nhưng nếu có sát tinh cũng đừng quá lo ngại, miễn sao sát hunh tinh ấy đừng có khắc hại với Chính Tinh hay cát tinh thủ Mệnh là được. Thí dụ như, cung Mệnh có Nhật hay Nguyệt thì cung Nô đừng nên có Kình Đà, cung Mệnh có Xương Khúc thì cung Nô đừng nên có Hỏa Linh Hóa Kị,… bởi vì như vậy thường sẽ khiến cho Nô Bộc có ảnh hưởng xấu đến Mệnh và Quan, Di của đương số.

Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:

Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;

ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.

(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,

ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).

Điều này đã từng nói, các cát tinh, các sao tôn quý mà đóng ở cung Nô thì thường cung Mệnh sẽ thường gặp phải ác tinh hoặc các sao hãm địa hoặc gặp phải sát tinh, như thế thì sẽ khiến cho đương số gặp nhiều gian lao vất vả. Tuy nhiên, bù lại thì cung Nô Bộc tốt sẽ có sự hỗ trợ, có sự giúp đỡ đắc lực từ bạn bè đồng nghiệp và nô bộc.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Nô Bộc, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “X - Nô Bộc” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

9. Luận giải cung Quan Lộc

Cung Quan Lộc cho biết mối quan hệ của đương số đối với sự thành bại trong công danh sự nghiệp, công việc có được thuận lợi hay không, mức độ thăng tiến đến vị trí cỡ nào, có uy quyền ổn định hay thăng trầm, có bị truất giáng chuyển đổi gì không, khả năng chuyên môn (tức trình độ, tay nghề) là cao hay thấp, có phù hợp với đương số hay không,…

Cung Quan Lộc bao gồm 2 phần Quan (sự nghiệp, công việc) và Lộc (tước lộc, bổng lộc đạt được từ công việc), cái chữ “Lộc” gắn liền với chữ Quan này có nguyên xuất phát thời Tây Hán, do Khoái Thông (thuộc hạ của Hàn Tín) nói với Hán Cao Tổ Lưu Bang rằng “Nhà Tần bị mất con hươu, thiên hạ cùng truy đuổi, ai tài cao thì sẽ bắt được”. Con Hươu gọi là Lộc, câu đó ám chỉ sự nghiệp tranh tài đoạt quyền lực, cho nên “Trục Lộc” (đuổi Hươu) sau này được dùng kèm với “Trảm Xà” (chém rắn, gắn liền với việc khởi sự của Lưu Bang) mà tạo ra thành ngữ “Trảm Xà trục Lộc”. Nói như thế để chúng ta biết được ý nghĩa của Quan Lộc, là nhấn mạnh về Quan vị Tước lộc,… cũng là nhằm hiểu chữ Lộc này mà suy ngẫm về câu phú “Định tam hợp chi nguyên lưu”, “Định tam hợp phù trì cát hung”. Đối với Tam hợp của Mệnh - Quan - Tài thì từ cung Mệnh là phát sinh khởi lưu, chuyển tới cung Quan Lộc là nơi phát triển thịnh vượng từ quan tước hưởng bổng lộc để quy về cung Tài Bạch vậy.

Xem cung Quan Lộc phải chú ý tới Mệnh Thân và cung Phúc, vì cát hung của những cung này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp của đương số. Cung Mệnh thì liên quan gắn liền chặt chẽ đến cung Quan theo thế tam hợp chiếu, cung Thân thì biểu thị căn cơ và sức phấn đấu tự lực bản thân để vươn lên trong sự nghiệp, hai cung này thì rõ rồi. Vậy còn cung Phúc Đức ảnh hưởng như thế nào đến Quan Lộc của đương số mà cần phải xem kỹ?

Thưa, nguyên do là vì ngày xưa trong chế độ phong kiến thì Phúc - Ấm là hai yếu tố gắn liền với nhau. Cha ông mà là hoàng thân quốc thích, hay là người có công lao với vua với triều đình thì nghiễm nhiên vợ con cháu chắt được hưởng ấm phong. Tùy theo từng thời từng triều đại, mức độ thân thích và công lao mà mức độ ấm phong là nhiều hay ít. Có khi được phong tước lộc, có khi được phong quan, nhưng thường là được phong hưởng lợi ích từ việc quản lý thuế má hoa lợi đối với một số không ít các hộ dân quanh khu vực người được phong ấm sinh sống. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà bị sát tinh xâm phạm, bị phá trong khi cung Quan Lộc đẹp đẽ thì sự nghiệp quan tước cũng không thể được coi là thành công to lớn đâu nhé.

Xem cung Quan Lộc phải chú ý đến các sao Thái Dương, Thiên Tướng, vì sao Thái Dương hóa khí là quyền quý là thần chủ quản cung Quan Lộc, sao Thiên Tướng hóa khí là ấn cũng là thần chủ quản cung Quan Lộc. Bên cạnh đó cũng cần chú ý tới Tử Vi, Thiên Phủ vì chúng là quyền và lệnh tinh quản về quyền hành và tước lộc. Cát hung của các sao trên đều có ảnh hưởng đến cát hung của cung Quan Lộc.

Luận về cung Quan Lộc thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:

Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;

(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý)

Tất nhiên rồi, Tử Phủ là các sao tôn quý vừa chủ uy quyền vừa chủ tước lộc, khi đắc miếu lại hội cát tinh phù tá đóng ở cung Quan Lộc thì sẽ khiến cho đương số vừa được giàu có, vừa được sang quý. Còn nếu như Tử Phủ mà lại gặp phải Tuần Triệt, Không Kiếp, sát hung tinh tụ tập thì không thể đoán là quý được, có thể vẫn được phú nhưng rồi cũng dễ suy tán hao hụt.

Cung Quan Lộc rất ưa có Hóa Quyền rồi sau đó là Hóa Khoa, Hóa Lộc, tụ hội với cát tinh, dù là do bất kỳ sao nào hóa ra đi nữa thì khiến cho cung Quan Lộc có khí lực mạnh mẽ để thăng tiến thành đạt. Tuy nhiên, Hóa Quyền mà lại gặp thêm các sát hung tinh thì cũng khiến cho sự nghiệp của đương số thăng trầm vô độ, bạo phát cũng bạo phá. Trường hợp này cần phải có các sao chế hóa hung tinh thì mới tốt, thí dụ Hỏa Linh cần gặp Tham Lang Tử Phủ để được chế, Liêm Trinh cũng hung cần gặp Thiên Tướng để chế,…

Xét về nghề nghiệp, xã hội thời xưa có ít ngành nghề và cũng không phân chia chi tiết như xã hội hiện đại, do đó khi suy đoán về nghề nghiệp của đương số thì cần phải phối hợp tính chất của các sao cho tinh tế, căn cứ vào thời thế hình thái xã hội mà đương số sinh sống để phân tích, căn cứ vào tính tình của đương số, kết hợp với các cung Mệnh Thân Nô Bộc mà suy đoán thì mới mong đưa ra những nhận định sát thực được.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Quan Lộc, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “IX - Quan Lộc” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

10. Luận Giải cung Điền Trạch

Chức năng của cung Điền Trạch cho biết mối quan hệ của đương số đối với tài sản vật chất, nhà cửa đấtđai, ruộng đồng vườn tược,… của mình. Chữ “Điền” có nghĩa là ruộng, vườn, còn chữ “Trạch” có nghĩa là nhà, là nơi ở nói chung. Do đó, cung Điền Trạch thì ngoài phần phản ánh mối quan hệ về đất đai, ruộng vườn mà đương số có sở hữu thì còn phản ánh cả mối quan hệ về nơi ở, nơi cư trú mà đương số không sở hữu, ví dụ như nhà đi thuê, chỗ tạm trú trong một thời hạn nào đó.

Ruộng vườn là môi trường để con người ta lao động sản xuất canh tác, trồng trọt nhằm tạo ra của cải vật chất, cũng là để có lương thực để phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Bởi thế mà người xưa nói “tấc đất tấc vàng”. Ngày nay, ý nghĩa của câu này còn thực tiễn hơn nữa đối với đất ruộng vườn mà còn với cả đất nơi cư trú, do giá trị của chúng rất lớn nên được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, loại tài sản mà được xếp vào nhóm bất động sản. Vì vậy, trong môn Tử Vi Đẩu Số, khi xét mức độ giàu có (phú) của đương số thì ngoài cung Mệnh Thân, Tài Bạch, thì nhất định phải chú ý đến các cách cục ở cung Điền Trạch.

Xem về vấn đề có sở hữu được nhiều hay ít đất đai, bất động sản thì khi xét cung Điền Trạch cần phải chú ý đến cung Mệnh Thân và cung Phúc Đức của đương số, bởi vì cung Mệnh Thân cho biết khả năng tạo dựng cơ nghiệp còn cung Phúc Đức thì cho biết đương số có phúc phần được hưởng thừa kế đất đai từ cha ông hay không, được hưởng thì nhiều hay ít và dòng dõi xuất thân của đương số là cao quý hay nghèo hèn.

Xem về vấn đề cát hung phần dương trạch để biết nơi cư trú của đương số có phù hợp để đương số và gia đình có sức khỏe tốt hay không (vì an cư thì mới lạc nghiệp mà) thì khi xét cung Điền Trạch gốc phải xét đồng thời đến cung Lưu Điền Trạch và Thiên Di của các hạn (chủ yếu là theo đại hạn, cung Lưu Điền Trạch được gọi là cung Điền Trạch hậu thiên). Nếu như chúng đều có cách cục tốt, có các cát tinh tụ hội thì đương số tất sẽ được ở trên mảnh đất lành, vận thế tốt đẹp làm bàn đạp tạo dựng cơ nghiệp vững chắc ổn định, người trong nhà cũng luôn được khỏe mạnh vui vẻ, buôn bán bất động sản cũng được suôn sẻ đem về nhiều lợi nhuận. Còn nếu như các hung sát ám tinh xâm phạm thì nhà cửa không ổn định, trong nhà dễ phát sinh ốm đau, tang tóc, lục đục cãi cọ, tranh chấp,… Như thế thì khó lòng mà chuyên tâm công việc tạo dựng sự nghiệp được. Hơn nữa, những việc liên quan đến buôn bán bất động sản cũng thường sẽ bị ế ẩm thua lỗ, bị lường gạt.

Xem cung Điền Trạch, cần chú ý đến sao Thái Âm (chính) và Thiên Phủ, Vũ Khúc (phụ) vì hóa khí là tài phú, là thần chủ quản cung Điền Trạch, độ miếu hãm và cát hung đi kèm của các sao ấy cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cát hung của cung Điền Trạch.

Cung Điền Trạch cũng hàm chứa biểu hiện về tài sản của cải, cho nên nó rất ưa có các tài lộc tinh, các cát tinh đến đóng ở trong cung, đồng thời rất ngại các sao Không Vong hao phá và các sát tinh.

Khi luận về cung Điền Trạch thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:

Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.

(Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).

Đây chính là tiên sinh lấy tính chất hao phá của sao Phá Quân để mà làm ví dụ điển hình, tất nhiên phải đừng là trường hợp Phá Quân hãm địa tụ hội bầy sát tinh vì như thế sẽ khiến cho cả đời dễ long đong với cảnh màn trời chiếu đất chứ khó mà xây dựng được sản nghiệp. Chúng ta hãy nhớ rằng, tính chất của Phá Quân là luôn có xu hướng phá bỏ cái cũ để tạo lập cái mới, nhưng để thành công trong việc tạo dựng cái mới thì phải có cát tinh phù tá thì mới được, còn nếu như cát tinh không tụ lại chỉ gặp sát hung tinh thì công cuộc xây dựng cái mới sau khi đã phá bỏ cái cũ chỉ là viễn cảnh.

Cung Điền Trạch trong ý nghĩa là tài sản của cải, nhất thiết cần phải đề cập đến một vấn đề là bị Không Vong án ngữ, lý thường thì vật chất rất ái ngại Không Vong, các cụ vẫn thường nói:

“Tuần Triệt gia lâm, tổ nghiệp nan chiêu” hoặc “Tuần Triệt gia lâm, nhất thời hao tán”

Tức là, khi cung Điền Trạch bị Tuần Triệt Không Vong án ngữ thì có thể sẽ có một thời gian bị hao tán, không được thừa hưởng thừa kế do cha ông để lại, hoặc phải bán bớt nhà cửa ruộng vườn đi. Sau đó, đi xa lập nghiệp hoặc đến hậu vận thì sẽ lại gây dựng thành công về nhà cửa ruộng vườn.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, cung Điền Trạch mà có cách cục xấu, đồng thời lại có Không Vong án ngữ, thì có thể làm giảm tính xấu, đỡ bị hao tán, nhưng ảnh hưởng do Không Vong vẫn làm cho tài sản không ổn định ở tiền vận, và chỗ ở cũng thường có một số vấn đề như nhà nằm nơi trống, vắng vẻ, trong ngõ, căn nhà thường thiếu vuông vắn, hay bị thấm ngấm dột (kể cả ở nhà đẹp cũng bị), đường nước hay hỏng,...

Một điểm cần lưu ý nữa đối với việc giữ gìn và thừa hưởng tài sản đất đai ruộng vườn, là khi Hóa Kị và Cô Quả đóng ở ngay trong cung Điền Trạch thì sẽ giữ được tài sản, tích lũy được, được thừa hưởng thừa kế,… vì các sao này đều chủ sự thâu tàng cất giấu. Dĩ nhiên chúng đừng có hội với sát tinh và phải ở ngay trong bản cung chứ đừng ở vị trí xung hay chiếu.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Điền Trạch, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VIII - Điền Trạch” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

11. Luận Giải cung Phúc Đức

Cung Phúc Đức là cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cũng là một trong những cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại như chúng ta đã biết trong quá trình luận đoán các cung chức vừa qua.

Vai trò quan trọng của cung Phúc Đức khi luận đoán số Tử Vi cũng được cổ nhân đúc kết trong lời các bài phú như:

Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, sau đó xét kỹ cung Thiên Di)

Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại

(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, đó là chỗ sở tại của tinh thần tư Phúc Ấm từ tổ tông ban cho).

Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.

(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).

Nếu phân chia cung Phúc Đức theo hai lĩnh vực Hữu hình và Vô hình, thì ta có thể nói rằng:

Phần Hữu hình bao gồm dòng dõi họ tộc, xuất thân của đương số thuộc tầng lớp nào trong xã hội, sự kiện một số người hay cả họ tộc thịnh suy ra sao đoàn tụ hay ly tán, hình thế ngôi mộ của tổ tông mà ảnh hưởng trực tiếp đến đương số, tài sản của tổ tông truyền thừa cho đương số,…

Phần Vô Hình bao gồm Âm đức của tổ tông truyền thừa cho đương số, Phúc đức của tự bản thân đương số được hưởng do chính mình làm việc thiện mà nên, bản năng con người (phần tiềm ẩn về tinh thần tư tưởng hành xử, nó quyết định sự bộc lộ ra bên ngoài của tính cách ở Mệnh Thân),…

Trong phần luận về Âm Chất của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có viết:

Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp "đảo hạn" (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại... xin xem thêm câu "Lộc đảo, Mã đảo...") vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là "nhân tằng hành âm đằng" (tằng tổ - người cụ đã khuất - làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy. Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến vậy. Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy.

Được hưởng những điều tốt lành cát lợi thì cũng được gọi là Phúc, mà gặp phải những điều xui xẻo hung hiểm thì gọi là Họa. Cho nên có thể dùng cặp Họa - Phúc để mà nói đến hoặc thay thế cho cặp Cát - Hung.

Cung Phúc Đức mà tốt có thể giải trừ tai họa, cho nên sách nói:

Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.

(Âm đức của tổ tông mà tốt đẹp là có thể khiến cho phúc tăng trăm lần, dẫu có đến chỗ hiểm địa cũng không bị tổn thương).

Đó chính là lý do mà cung Phúc Đức có thể quyết định đến tuổi thọ của đương số. Xem cung Phúc Đức kết hợp cùng Mệnh Thân thì có thể đoán định được đương số thọ hay yểu.

Xem cung Phúc Đức cần phải lưu ý đến các sao Thiên Đồng vì nó hóa khí là Phúc, làm chủ của cung Phúc Đức, và đồng thời cũng cần lưu ý đến các sao Thiên Lương (hóa khí là Ấm), Tử Vi, Thiên Phủ, vì chúng cũng đều chủ ban phúc, may mắn, kéo dài tuổi thọ,… cát hung của các sao này cũng có ảnh hưởng đến tình hình cát hung chung của cung Phúc Đức.

Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh khi luận cung Phúc Đức có nói:

Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;

(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định)

Ấy là lấy tính chất của Không Vong và hung sát tinh khiến cho Âm đức của tổ tông ở Phúc Đức của đương số bị hao tán, thành ra họ hàng cũng chẳng được tề tựu, bản thân đương số cũng ly hương bôn tẩu,… Dĩ nhiên đã lang thang vô định thì tuổi trẻ thường là nghèo hèn, cho nên sách cũng nói:

Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,

Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.

(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,

Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).

Nói chung cung Phúc Đức rất ưa có các sao Quý Nhân, Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc,… có các sao chủ quan tước như Thái Dương, Thiên Tướng đắc miếu thì cũng rất tốt, bởi vì:

Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,

Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.

(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà được giàu có,

Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).

Cung Phúc Đức thường e ngại các sao Không Vong (trừ khi vô chính diệu), Hao Phá, sát ám hung tinh,…

Về vấn đề hình thế của ngôi mộ tổ tông mà đương số nhận ảnh hưởng trực tiếp, tức là luận đoán về Âm Phần, chúng ta cần phải lưu ý rằng trong Tử Vi Đẩu Số có một yếu tố quan trọng là tính thời đại, ngày nay phần lớn mồ mả đều được quy tập quần tụ ở các nghĩa trang cho nên về hình thế phong thủy quanh ngôi mộ (táng nơi đất thấp hay đất cao, minh đường tiền án, thanh long bạch hổ,…) hầu như không còn là những thông tin điển hình như đối với xã hội thời xưa.Tuy nhiên, mọi người vẫn cần phải chú tâm để có thể nắm được phương pháp luận đoán đối với các lá số của người thời xưa.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể và luận đoán Âm Phần đối với cung Phúc Đức, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VII - Phúc Đức” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

12. Luận Giải cung Phụ Mẫu

Chức năng của cung Phụ Mẫu cho biết mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ của mình, tình cảm có hòa hợp tốt đẹp hay không, bối cảnh của gia đình đương số như thế nào, địa vị thành tựu của cha mẹ ra sao,… từ đó biết được xuất thân của đương số ở giai tầng nào trong xã hội, sự trợ giúp của cha mẹ đối với đương số, gián tiếp ước lượng suy đoán được thọ yểu của cha mẹ đương số.

Cung Phụ Mẫu còn được gọi là Tướng Mạo cung, điều này vốn là sự kế thừa của môn Tử Vi Đẩu số từ các môn tiền thân của nó là Thất Chính Tứ Dư và Thập Bát Phi Tinh (còn được biết đến dưới cái tên Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số). Ngày nay, trong các thư tịch của môn Tử Vi Đẩu Số chúng ta vẫn thường hay bắt gặp bằng chứng là những câu như:

Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,

Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.

(Tướng Mạo - tức Phụ Mẫu cung - gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,

Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).

Tướng mạo chi trung phùng sát diệu,

Cánh gia tam hợp hựu phùng Hình,

Tật ách Kình Dương phùng Hao Sứ,

Chiết thương chi thể bất hòa bình.

(Sát diệu đóng vào Phụ Mẫu cung

Lại thêm tam hợp Thiên Hình phùng

Tật Ách Kình Dương cùng Hao Sứ

Thân thể tổn thương có phá tướng.)

Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,

Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.

(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,

Hung tinh hội chiếu Tướng Mạo (Phụ Mẫu) và Thiên Di cung, thì trên người và mặt có thương tật).

Theo quan điểm Lý Số của người Á Đông, đại diện tiêu biểu là Chu Hi (hiệu Hối Am) thì từ khi Âm Dương giao hợp đến lúc con người và vạn vật sinh ra, thông qua phụ mẫu mà được bẩm thụ cái Khí của trời đất mà thành Hình hài, bẩm thụ cái Lý của Khí để mà thành Tính. Còn theo lý luận mang tính duy vật hiện đại thì Hình hài tướng mạo là có sự di truyền từ cha mẹ, Tính cách cũng một phần là do một số gen quy định, phần còn lại là do môi trường sống sau này quy định, nhân cách bắt đầu định hình từ lúc khoảng 3 tuổi trở đi, thời gian này mỗi cá nhân đều ở với cha mẹ và chịu ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ từ sinh hoạt và sự giáo dục của cha mẹ.

Cho nên, trong môn Tử Vi Đẩu Số, việc sắp đặt cung Phụ Mẫu thay thế cho tên gọi Tướng Mạo cung, kề ngay bên cạnh Mệnh cung, đối xung với cung Tật Ách, thiết nghĩ đó cũng là một hiệu chỉnh tổng quát với một hệ thống lý luận chặt chẽ vô cùng hữu lý.

Theo đó, xem cung Phụ Mẫu có thể suy đoán bổ sung cho cách các cục ở Mệnh Thân về tính cách, tướng mạo của đương số, tất nhiên vẫn cần lưu ý đến cung Tật Ách.

Xem về các mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ mình thông qua cung Phụ Mẫu, cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức, vì cát hung của cung Phúc Đức có ảnh hưởng mạnh đến sự hòa hợp hay xung khắc của đương số với cha mẹ mình. Nếu cung Phụ Mẫu không đẹp nhưng cung Phúc Đức lại tốt đẹp thì cũng có thể giảm nhẹ đi tính chất xung khắc của đương số với cha mẹ.

Xem về cha mẹ đương số thông qua cung Phụ Mẫu, cần đặc biệt lưu ý đến hai sao Nhật Nguyệt, vì chúng là biểu tượng Âm Dương của cha mẹ. Tùy vào độ sáng tối và đi kèm sát hung tinh thế nào mà luận đoán xem đương số hợp hay khắc với cha hay với mẹ. Khi xét sự sáng tối của Nhật Nguyệt thì cần lưu ý đến thời điểm ra đời của đương số là ban ngày hay ban đêm (từ cuối giờ Dần đến đầu giờ Thân là thuộc về Ban Ngày, từ cuối giờ Thân đến đầu giờ Dần là thuộc về Ban Đêm), thời gian là khoảng nào trong tháng (Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền).

Ngoài ra còn cần lưu ý đến sao Thiên Lương, vì nó hóa khí là Ấm, làm chủ cung Phụ Mẫu.

Cát hung của các sao này đều ảnh hưởng đến sự hòa hợp hay hình khắc của mối quan hệ giữa đương số với cha mẹ mình, ảnh hưởng đến sức khỏe tuổi thọ của cha mẹ đương số.

Khi luận về cung Phụ Mẫu thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh có nói:

Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.

(Tướng Mạo, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).

Tùy vào mức độ tụ tập ít hay nhiều, của các sao Hình Sát mà luận đoán mức độ hình khắc của đương số với cha mẹ mình, nhẹ thì có thể là khắc khẩu, không hợp tính tình, nặng thì sinh ly hoặc tử biệt.

Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Phụ Mẫu, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VI - Phụ Mẫu” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).

13. Cung Thân

Cung Thân sẽ không có cung vị riêng, mà sẽ nằm chung với một trong 6 cung Mệnh, Phúc, Quan, Di, Tài, Phu dựa vào giờ sinh. Cung Thân sẽ phụ thuộc rất nhiều vào cung mà nó đóng cùng, thể hiện mối quan tâm và sự gắn bó với cung vị đó. Ví dụ như Thân cư Quan sẽ là người quan tâm rất lớn đến công danh, sự nghiệp, người Thân cư Phu lại là mẫu người của gia đình, sống tình cảm.

Nhiều trường phái tử vi cho rằng cung thân tác động vào đương số sau 30 tuổi, do đó sau 30 tuổi người ta khi xem tử vi sẽ đánh giá thêm cung Thân kết hợp với cung Mệnh.

Ý nghĩa của cung Thân gửi vào các cung như sau:

a. Cung Thân hoặc cung Mệnh đồng cung (người sinh giờ Tí hoặc Ngọ)

Tính tình cứng rắn, cố chấp, bộc trực thẳng thắn, miệng cứng nhưng lòng mềm. Tiên hậu thiên đều ở một cung, mệnh vận có khuynh hướng tốt nhiều xấu nhiều. Cung có cát tinh, tam phương có cát tinh vây quanh, mới được tốt nhiều. Cung có hung tinh, tam phương cũng gặp hung tinh ác sát, là cuộc đời không ổn định; xem phối hợp các sao ở cung hành vận cát hung thế nào mà định, cát thì hơi cát, hung thì rất xấu; thông thường, bình sinh rất vất vả.

b. Cung Thân nhập cung Phúc Đức (người sinh giờ Sửu hoặc Mùi)

Khá xem trọng hưởng thụ cá nhân, tổ hợp sao cát thì có hưởng thụ, hung thì không. Tiêu tiền cho mình, để thỏa mãn chuyện vui chơi giải trí. Trường hợp hai cung Tài Phúc đều không tốt, là một đời vất vả, cuộc sống quá buồn. Trường hợp cung Tài tốt còn cung Phúc không tốt, có tiền mà không biết xài, là đầy tớ giữ tiền. Trường hợp cung Tài không tốt mà cung Phúc tốt, biết tri túc.

c. Cung Thân nhập cung Quan Lộc (người sinh giờ Dần hoặc Thân)

Bất chấp trước sự nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, rất xem trọng vinh dự, có tham vọng. Nếu tổ hợp sao tốt, có thể lập nên nghiệp lớn, năng lực làm việc rất tốt, một đời thuận lợi, khí chất cao thượng; nếu tổ hợp sao không tốt thì ngược lại.

d. Cung Thân nhập cung Thiên Di (người sinh giờ Mão hoặc Dậu)

Thân nhập vào không gian xã hội hoạt động, là giao du rộng, thích ứng được với hoàn cảnh nhiều biến động, mệnh vận một đời nhiều thay đổi lớn, thân tâm khá bận rộn vất vả, khó được thanh nhàn, ưa ra bên ngoài, đi xa chơi. Do Mệnh Di đối nhau, nên ảnh hưởng lẫn nhau; nếu hai cung Mệnh Di đều tốt, bản cung Thân hoặc cung Mệnh chủ có tài năng, còn có thể phát huy. Nếu cung Mệnh tốt mà cung Di không tốt, bản cung Thân hoặc cung Mệnh chủ tuy có tài năng, nhưng lúc khởi đầu khó phát huy, phải trải qua nỗ lực, mới được mọi người công nhận, từ đó có chỗ để phát huy.

Trường hợp cung Mệnh không tốt mà cung Thân tốt, lúc bé cơ thể hư nhược nhiều bệnh, bú sữa của người khác hoặc làm con nuôi của người khác, người này rời xa quê hương để tìm hướng phát triển sẽ tốt hơn ở tại quê nhà.

e. Cung Thân tập cung Tài Bạch (người sinh giờ Thìn hoặc Tuất)

Phần nhiều không thiếu tiền tiêu xài, một đời xem trọng việc vận dụng tiền bạc, có đầu óc kinh tế, giỏi tính toán, khéo quản lý tiền bạc. Thường theo ngành kinh doanh buôn bán, nếu tổ hợp sao cát, có thể trở thành đại phú ông; nếu tổ hợp sao hung thì không được vậy, một đời bôn ba vất vả vì tiền, cuộc sống quá gian khổ.

f. Cung Thân nhập cung Phu Thê (người sinh giờ Tỵ hoặc Hợi)

Quan niệm gia đình khá nặng, nhạy cảm đối với tình yêu. Nữ mệnh, đối với nhà chồng và nhà cha mẹ ruột đều quan tâm chăm sóc. Tổ hợp sao mà cát thì tình cảm vợ chồng tốt đẹp, rất quan tâm chăm sóc người phối ngẫu; có thể nhờ hôn nhân mà được ích lợi; nếu tố hợp sao không tốt, dễ bị khốn đốn vì tình, cũng dễ bị tương tư đơn phương, tình cảm đau khổ phiền não, hôn nhân không hạnh phúc.

LUẬN VỀ 14 CHÍNH TINH

Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Tôi (dịch giả TUETVNB) dịch phần “thập tứ chủ tinh tính chất” của nhà nghiên cứu nổi tiếng Vương Đình Chi để cùng tham khảo.

Vương Đình Chi là nhà nghiên cứu Lý Học nổi tiếng ở Hồng kông, nhưng sở trường nhất là Tử Vi, ông theo quan điểm của Trung Châu phái. Đọc Tử vi của Vương Đình Chi, về cơ bản cũng không ngoài nguyên lý chung của Tử vi, tuy nhiên cách nhìn nhận, lập luận và đánh giá có đôi chút khác biệt, vì thế tôi có thêm vào đôi lời bàn luận sau mỗi phần dịch để sáng tỏ thêm.

Mười bốn chính tinh

Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.

TỬ VI

Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “Quần thần củng chiếu”. Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình thường.

Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.

Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.

Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.

Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.

Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn.

Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.

Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.

Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.

Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.

THIÊN CƠ

Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.

Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.

Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.

Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.

Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.

Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.

THÁI DƯƠNG

Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc.

Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.

Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.

Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy.

Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.

Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.

Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác “cho mà không nhận”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc lấn át, chuyên quyền không phải là không có.

VŨ KHÚC

Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.

Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc - Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.

Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế - rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc - Hóa kỵ thì càng tệ) “song khúc hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.

Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng “Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt”, chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách, tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá tinh vậy.

THIÊN ĐỒNG

Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.

Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “vãn vận” (vận muộn), cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.

Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.

LIÊM TRINH

Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.

Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc) và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là “Gặp thiện thì theo thiện”. Liêm trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.

Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải suy ngẫm thêm.

THIÊN PHỦ

Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần “quần thần đồng hội”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp “gian” cũng chẳng lộ ra là “gian”.

Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, cái lập luận về tính “gian” của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng “nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế” thì có vẻ như hơi khiên cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ “phù thịnh bất phù suy” nhưng chưa hẳn đã đến nỗi phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.

THÁI ÂM

Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.

Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).

Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm - Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.

THAM LANG

Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.

Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.

Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “đổi thang mà không đổi thuốc” (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.

Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.

CỰ MÔN

Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.

Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ.

Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp, lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phú quý không thiếu.

Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.

Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh luận rằng “Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ” thật là sắc bén. Duy chỉ có điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.

THIÊN TƯỚNG

Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính - giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.

Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng “Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” - (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.

Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do Thiên Lương là Hình) - không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định.

Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách).

Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.

Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống người mạnh” (thành ngữ - ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh).

Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.

Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo “đẩu số toàn thư” thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện), biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên Tướng “kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí” (gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng không thể nhận xét rằng “thiên tướng là sao không có tính cách”. Tính cách “gặp thiện theo thiện, gặp ác theo ác” của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm. Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu “Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần”, là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu sót chăng?

THIÊN LƯƠNG

Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.

Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt: Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.

Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.

Trong cách cục Thiên Lương - Hình Kỵ: Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng?

Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.

Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.

THẤT SÁT

Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời. Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo tính chất cương khắc.

Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.

Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.

Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “hóa sát vi quyền” (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.

Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.

Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy.

(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ” - Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.

Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng “không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ”, lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu “Thất Sát - Thiên Hình, cương táo nhi cô”, trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình. Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.

PHÁ QUÂN

Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “chiến tướng” tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.

Bởi Phá quân “năng công bất năng thủ”- hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “động” nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà “hóa phá vi quyền”- Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi.

Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể.

Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc.

Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa “công”, vừa “thủ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.

Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.

Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “chiến tướng bị hao tổn” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.

Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh “chiến tướng” khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là “thừa hành chính lệnh”. Trong quan điểm của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói “Phá quân hội văn tinh nhất sinh bần sĩ”. Phá quân vốn là “nghi loạn bất nghi trị” hợp với thời loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt. Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào. Cũng nên chiêm nghiệm.

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG VÒNG THÁI TUẾ

Phương pháp giải đoán của phái Thiên Lương rất chú trọng vòng sao Thái tuế bởi vì nó cho biết được:

1. Tư cách con người: để biết người đó thuộc dạng nào, tính nết ra sao...

2. Xác định được đại vận tốt trong cuộc đời đương số

Từ 2 thông tin trên người giải lá số có thể biết rõ lá số hơn từ đó đưa ra lời khuyên ứng xử với cuộc sống cho người xem lá số. Vòng thái tuế là một khám phá rất độc đáo của cụ Thiên Lương, nắm được nó người giải đoán có thể khám phá khá rõ về lá số bên cạnh các kinh nghiệm khác của cụ.

Trong bài viết này mình triển khai việc thứ nhất. Việc liên qua tới Đại hạn em sẽ trình bày vào bài tiếp theo. Ở đây đang xét khi Mệnh có một con sao trong nhóm tam hợp nào của vòng Thái tuế.

1. Vòng Thái tuế là gì?

Vòng Thái Tuế bao gồm 12 sao: Thái tuế - Thiếu dương - Tang Môn - Thiếu âm - Quan Phù - Tử phù - Tuế phá -Long đức - Bạch hổ - Phúc đức - Điếu khách - Trực phù.

Trong đó có 4 nhóm sao, với các tính chất:

- Nhóm 1: Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ: nói lên đương số là người có lý tưởng, tính tình ngay thẳng, đoàng hoàng có tư cách, dễ thành đạt và làm những việc hợp với sở thích. Lại được người xung quanh yêu chuộng, mến trọng

- Nhóm 2: Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức: ở cách này đương số được sáng suốt (do Thiếu dương) nhưng hay cạnh tranh lấn át người khác để chiếm phần hơn, nhưng nếu lấn át bằng cách ma giáo thì dù thành công cũng sôi hỏng bỏng không (do Thiên không ở trong tam hợp, có khi lại còn mắc họa do có cả những sát tinh mạnh như Lưu hà, Kiếp sát). Tuy nhiên, có sao Tứ đức và nhất là Phúc đức để khuyên nhủ, thúc đẩy đương số làm việc Phúc đức, ngay lành - được như vậy thì vận mạng sẽ yên ổn

- Nhóm 3: Tang môn, Tuế phá, Điếu khách: ở vị trí này vì vị trí xung phá, đối kháng với tam hợp Thái tuế, Quan Phù, Bạch hổ nên thường chống đối bằng các phương tiện. Nhóm này gặp khó khăn trong việc đạt được chí nguyện trọng đời, thường làm những công việc không đúng với sở nguyện. Nhưng thông minh, tháo vát, hoạt động (vì mạng ở thế đối kháng Thái tuế thường có Thiên mã)

- Nhóm 4: Thiếu âm, Long đức, Trực phù: ở thế này thường là thế của người làm công hay phụ thuộc người khác, thường làm thành công nhưng không được hưởng lợi xứng đáng (bị bạc đãi) nhưng lại được hưởng phúc, được an lành (do được Long đức an ủi, một số người lại được hưởng cả Lộc tồn)

Trong mỗi nhóm trên 3 sao trong nhóm luôn ở vị trí tam hợp với nhau. Mỗi nhóm trên sẽ ứng mới một tính cách đặc trưng như đã trình bày.

2. Tư cách của đương số khi Mệnh có con sao tương ứng trong vòng Thái tuế

- Thái tuế: Là con người tự hào coi mình như là người làm gì có sứ mạng cho người khác, làm rất quang minh, chính đại

- Quan phù: Họ cũng hành động chính đáng nhưng trước khi hành động họ phải suy nghĩ làm thế nào cho kỹ càng để không đụng chạm (tính toán kỹ lưỡng)

- Bạch hổ: Là người lăn xả vào công việc chính đáng bất kể không gian, thời gian để hoàn thành công việc (làm việc cố hết sức)

- Thiếu dương: Là người khôn ngoan sắc sảo muốn hơn người ta

- Tử phù: Là người khôn ngoan nhưng khi làm hay bị trở ngại lên không làm được (khôn ngoan nhưng khi làm thì thất bại)

- Phúc đức: Là người khôn ngoan hơn người, nhưng có đức độ, biết lấn vừa phải, nghĩ tới phúc đức thần quyền

- Tuế phá: Là mẫu người không bao giờ đồng ý, khi bàn ra chống phá tới cùng, người ta đề nghị gì thì bác bỏ hết

- Điếu khách: Là mẫu người đối kháng bằng miệng, thường lấy lời nói để thuyết phục phân trần

- Tang môn: Là người bất mãn, không thoải mái. Người ta cho công việc này lại muốn công việc khác, không bao giờ thỏa mãn cho tới khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thoải mãn

- Thiếu âm: Là người hay lầm lẫn sai xót, khờ khạo tin người ta, làm mà không được hưởng (khờ khạo mà thành khờ dại)

- Trực phù: Là người gánh chịu tất cả thiệt thòi về mình. Mình làm người khác hưởng hoặc không được thù lao xứng đáng

- Long đức: Là người thua thì tự an ủi và nghĩ tới vấn đề về phúc đức (an ủi vì thua thiệt mà tu, bon chen cũng không đến đâu)

Như vậy người giải đoán lá số tử vi chỉ cần nhìn trong cung Mệnh có con sao nào trong vòng Thái tuế tra thông tin trên là có thể dự đoán được tư cách của đương số rồi, từ đó có lời khuyên phù hợp trong cách ứng xử thích hợp.

3. Vì sao lại như vậy?

Cũng vì mọi người có thói quen tìm hiểu tính chất của tinh đẩu trong vòng Thái tuế lên rất khó chấp nhận được khám phá này của cụ Thiên Lương. Tuy nhiên, tôi thấy chúng ta cần nhìn theo một hướng khác thì vấn đề sẽ rõ ràng hơn rất nhiều, đó là nhìn các sao trong vòng Thái tuế là "chỉ báo" để nhận biết tính cách. Mỗi một nhóm trong 4 nhóm trên luôn chỉ báo cho chúng ta một cách cục đặc biệt là nó hội tụ các sao phụ trợ.

Tạm lấy một ví dụ: để kiểm tra axit hay bazơ chúng ta sử dụng quỳ tím, như vậy ta có phải quan tâm quỳ tím cấu tạo ra sao, làm ra thế nào? Hay chỉ cần biết quỳ tím là cách dùng để kiểm tra axit hay bazơ. Vậy vòng Thái tuế nếu nhìn theo hướng nó là chỉ báo một tính chất gì đó là khám phá của cụ Thiên Lương, chứ nhìn tính chất tinh đẩu của sao trong vòng Thái tuế thì sai với tinh thần phương pháp của cụ (cá nhân mình hiểu là vậy, sau một thời gian học mình hiểu ra là khám phá vòng thái tuế là về Cung Vị của lá số).

- Nhóm 1: Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ: luôn có thêm Tứ Linh (Long trì, Phượng các, Hoa cái, Bạch hổ) đồng cung hoặc chiếu qua. Đây là 4 sao rất tốt chỉ về công danh, về sự làm ăn tốt, về sự ngay chính. Cũng có trường hợp không đủ bộ thì chỉ 3 (như thiếu một Phượng các) thì cũng kể như được Tứ Linh, chỉ giảm một chút. Và không bao giờ bị Cô Quả trong tam hợp vì vậy được nhiều người mến, có quần chúng.

- Nhóm 2: Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức: nhóm này luôn có con Thiên không trong tam hợp (Thiên không đứng cạnh Thiếu dương). Con sao này tính chất là nếu đương số tham lam quá thì cũng thành không thôi. Cụ thể: nếu Thiên không ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) là vị trí trắng tay, nếu đắc vận làm ăn thì có tiền mua đất cát để giữ, chứ giữ tiền mặt rất dễ mất, đừng ham làm lớn rất dễ sạt nghiệp. Còn nếu Thiên không đi cùng Đào Hoa ở tứ chính (tí, ngọ, mão dậu) thì báo hiệu đương số rất khôn ngoan, quỷ quyệt ranh mãnh, người này lên sống ít mưu mô thì cuộc sống sẽ tốt hơn. Trường hợp Thiên không ở tứ sinh (dần, thân, tị, hợi) thì luôn có con sao Hồng Loan đồng cung hoặc chiếu sang báo hiệu người này có giác quan nhạy cảm không tham sân si, hướng về phúc đức thần quyền, hướng về các việc xã hội, các nhà tu hành thường có cách này.

- Nhóm 3: Tang môn, Tuế phá, Điếu khách: luôn luôn có con sao Thiên mã là nghị lực, mẫn cán. Tùy theo hành con Thiên mã này mà người này có được việc hay không? Về dịch mã mọi người có thể tìm hiểu thêm từ các sách của cụ Thiên lương hoặc các bài viết của có tiền tố 10 của giáo sư Lê Trung Hưng - con trai cả cụ Thiên Lương.

- Nhóm 4: Thiếu âm, Long đức, Trực phù: đây là vị trí sinh xuất thua thiệt, lầm lẫn, làm nhiều hưởng ít vì vậy người này lên biết tự an ủi mà tu.

TỨ HÓA NĂM SINH NHẬP 12 CUNG MỆNH BÀN

1. Mệnh cung

1.1, Hóa Lộc năm sinh nhập Mệnh:

* Chủ phúc. Cả đời ít lo, cơm áo không thiếu.

* Thấu tình đạt lý, tùy duyên chứ không cố chấp. Tấm lòng chân thật.

* Không hận thù, khéo ăn ở. Nhân duyên tốt (Mệnh cung và Nô Bộc cũng là cung vị nhất lục cộng tông).

* Hôn nhân, gia đình chung sống đều hòa hợp (Mệnh cung là [cung Phúc Đức của Phu Thê]).

1.2, Hóa Quyền năm sinh nhập Mệnh:

* Chủ quan, chủ kiến, tự lực, tự tin.

* Dễ không khiêm tốn, tự cho mình là đúng.

* Tính cứng, tùy hứng.

* Cách cục tốt thì nắm quyền hành, có tài năng, tích cực, có thể "khai sáng, kiến lập".

* Thêm Kị thì ngoan cố bảo thủ.

1.3, Hóa Khoa năm sinh nhập Mệnh:

* Tướng mạo lịch sự, văn nhã.

* Các tính khá là tao nhã, văn vẻ.

1.4, Hóa Kị năm sinh nhập Mệnh:

* Cố chấp, câu nệ, khó khai thông.

* Hận thù, phiền não, cáu giận.

* "Tham, sân, si", đề phòng đi vào ngõ cụt mà không tự nhận ra.

(Tác giả chú: Kị nhập Mệnh là cá tính "thâu liễm" vào trong, không thể mở rộng tấm lòng. Đụng việc rất dễ tự mình "nhiều đắn đo", tự mình phiền muộn; người có cách cục xấu thì thậm chí nôn nóng, tự bế tắc. Cung Phúc Đức tọa Kị cũng luận giống như vậy).

2, Huynh Đệ cung

2.1, Hóa Lộc năm sinh nhập Huynh Đệ:

* Anh em thuận lợi như ý, anh em chính là "phúc của ta".

* Anh em ăn ở tốt, tình thâm như chân tay.

* Sự nghiệp một đời nhiều tiền ít trái nghịch (cung Huynh Đệ là vị trí thành tựu), có lợi cho việc thăng tiến, sáng lập sự nghiệp.

* Không cô quạnh, quanh mình không bao giờ thiếu bạn bè.

* Thân thể ít bệnh (cung Huynh Đệ là vị trí của vận thân thể).

* Duyên phận với mẹ được tốt đẹp.

* Chủ phòng ngủ lớn, tiếng hót họa mi.

(Tác giả chú: cung Huynh Đệ cũng chính là vị trí "tình trạng kinh tế", được Lộc ắt là kinh tế tốt đẹp, luân chuyển dễ dàng. Dù cho gặp cảnh sơn cùng thủy tận, cũng rất nhanh lóe lên tia hy vọng).

2.2, Hóa Quyền năm sinh nhập Huynh Đệ:

* Anh em rất dễ có thành tựu.

* Dễ có người "anh cả" ở trên mình.

* Sự nghiệp của ta có thành tựu về tiền tài (cung Huynh Đệ là cung vị thành tựu).

* Thể chất khỏe mạnh (cung Huynh Đệ là cung vị của vận thân thể).

* Tài năng của người mẹ rất lớn.

* Chủ phòng ngủ lớn.

2.3, Hóa Khoa năm sinh nhập Huynh Đệ:

* Anh em văn vẻ hào hoa.

* Thu nhập không nhiều, nhưng quản lý tài chính có kế hoạch, kinh tế ổn thỏa.

* Hợp đi làm công an ổn.

* Dưỡng sinh.

2.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Huynh Đệ:

* Thu nhập không nhiều hoặc chi tiêu ra nhiều, đời sống nên "tiết kiệm".

* Đa phần là người đi làm công ăn lương hoặc buôn bán nhỏ lẻ.

* Giữ gìn thành quả, an định, giữ phận an tĩnh, chăm lo việc nhà.

* Tự mình làm nhiều việc, vừa làm ông chủ vừa kiêm chân tiểu nhị.

* Không kết giao rộng rãi, ưa thích "nội tâm", thanh tĩnh (xung cung Nô Bộc).

* Nữ mệnh thì rất dễ là theo chuyên ngành thuộc về phụ nữ.

* Mệnh cách mà tốt đẹp, góp cát thành gò, kiến tha lâu đầy tổ.

* Rất dễ là con cả.

* Có thể muốn sáng lập sự nghiệp.

* Tượng của công việc vất vả.

3, Phu Thê cung

3.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Phu Thê:

* Có duyên với người khác giới, hôn nhân được hạnh phúc.

* Hoặc ta "đa tình", đề phòng chuyện "đào hoa" (có Đào Hoa tinh), Tề nhân chi phúc (QNB chú: thành ngữ từ tích "có người nước Tề có cả vợ lẫn thiếp, lại có cả tình nhân bên ngoài"), nếu mà ngoại tình thì khó bị phát hiện.

* Sau khi kết hôn thì mọi việc đều thuận ý toại lòng.

* Công việc như ý (Lộc chiếu Quan Lộc).

* Vận lúc còn trẻ bình an không âu lo (trước Đại Hạn thứ hai)

* Cả đời khá thuận lợi về chuyện tiền bạc (cung Phu Thê là [cung Phúc Đức của cung Tài Bạch]).

* Người phối ngẫu ăn ở tốt "thấu tình đạt lý".

* Gặp "sao Thiên Tài": đầu cơ, trúng thưởng, trúng số.

* Con cái thông minh.

3.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Phu Thê:

* Người phối ngẫu có tính chủ kiến mạnh mẽ, nhưng đề phòng dễ xảy ra tranh chấp.

* Vận công việc của ta mạnh mẽ (có Hóa Quyền chiếu Quan Lộc).

* Vận lúc còn trẻ bình an không âu lo (trước Đại Hạn thứ hai)

* Gặp "sao Thiên Tài": đầu cơ, trúng thưởng, trúng số.

* Cả đời khá thuận lợi về chuyện tiền bạc (cung Phu Thê là [cung Phúc Đức của cung Tài Bạch]).

3.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Phu Thê:

* Người phối ngẫu văn vẻ nho nhã, xinh đẹp.

* Người phối ngẫu có gia thế khá đơn giản.

* Dễ có tình cảm kiểu "dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng".

3.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Phu Thê:

* Người phối ngẫu cố chấp, không dễ khai thông, hôn nhân cần phải nhẫn nhịn.

* Hoặc ta "cố chấp vào tình cảm", gặp người không quen.

* Ít duyên nợ, nhiều trắc trở, chia ly.

* Không lợi ở đào hoa, hôn nhân không giá thú, cẩn thận đề phòng chuyện đào hoa ngang trái (thân bại danh liệt).

* Chớ có đánh bạc, đầu cơ.

* Công việc dễ thay đổi. Cũng có khả năng dễ thất nghiệp (Kị xung Quan Lộc).

4, Tử Tức cung

4.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Tử Tức:

* Dễ có con, sinh được nhiều con.

* Có phúc nhờ con, con cái sẽ không hư.

* Thân thích thường xuyên qua lại.

* Hùn vốn để kiếm tiền.

* Đề phòng đào hoa (nếu có Đào hoa tinh)

* Nhiều cơ hội rời nhà.

* Cảnh tuổi già tốt, có chỗ dựa (Tử Tức là vị trí nhất lục cộng tông của Phúc Đức).

* Trẻ con theo nhiều.

* Hợp với việc "ra ngoài kiếm tiền".

4.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Tử Tức:

* Con cái có chủ kiến mạnh mẽ, dễ có thành tựu.

* Con cái khó bảo, việc dạy dỗ cần hao tâm tổn sức.

* Có nhiều con cái.

* Hùn hạp thì có thành tựu.

* Hợp với việc "ra ngoài kiếm tiền"

* Cảnh tuổi già tốt.

4.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Tử Tức:

* Con cái văn vẻ, nho nhã, xinh xắn.

* Con cái tinh khôn lanh lợi.

4.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Tử Tức:

* Con cái cố chấp, khó mà khai thông.

* Hiếm con, con cái không có tiền đồ hoặc chia ly, ít được yên ổn.

* Đối với việc giáo dục con cái "không nắm được điểm mấu chốt".

* Dễ xảy ra việc hay rời bỏ nhà.

* Dịch mã, chuyển nhà, sa sút tài sản, thiếu năng lực quản lý tiền bạc, phải đề phòng cuộc đời nhiều thăng trần không an định (Kị xung vào cung "thủ thành").

* Bất động sản ít khi ghi tên của chính bản thân mình.

* Về già đề phòng xui xẻo, hợp với việc tu tâm dưỡng tính (cung Tử Tức chính là vị trí nhất lục cộng tông của Phúc Đức).

5, Tài Bạch cung

5.1, Hóa Lộc năm sinh nhập vào cung Tài Bạch:

* Có duyên với tiền tài, con đường tiền tài tốt đẹp (không hẳn là do tự mình kiếm ra).

* Cuộc đời không phải lo lắng đến tiền chi tiêu.

* Dễ kiếm tiền.

* Cha mẹ ít đau bệnh.

* Hôn nhân ăn ở khá tốt (cung Tài Bạch chính là vị trí "đối đãi" của hôn nhân).

* Có duyên với tiền tài, thích hợp với các công việc "tiêu thụ hàng hóa" và "thuế vụ", cũng có thể theo những việc "buôn bán lấy tiền mặt".

* Lộc mừng có Quyền tới tụ hội, thì "gặp hoàn cảnh tốt" sẽ càng mạnh mẽ chân thực, không gian phát triển càng thêm to lớn. Hội với Khoa thì "nguồn tiền tài lâu dài", hội với Kị thì phải trải nhiều vất vả.

5.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Tài Bạch:

* Kiến thức, tích cực, năng lực đều rất tốt.

* Giỏi về nguồn cung cấp (hàng hóa) trong kinh doanh, thu nhập tốt.

* Thích hợi với công việc lãnh đạo, phát triển, thanh toán thuế vụ. Lợi cho việc thăng tiến, cũng có thể sáng lập sự nghiệp.

* Hợp với kiểu tiền lương ăn chia theo hoa hồng. Không hợp với tiền lương cố định.

* Cha mẹ thân thể cường tráng.

* Quyền mừng có Lộc tới tụ hội, thì "gặp hoàn cảnh tốt" sẽ càng mạnh mẽ chân thực, không gian phát triển càng thêm to lớn.

* Hợp đi sâu vào chuyên môn, có thể được lương cao chức trọng.

5.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Tài Bạch:

* Thu nhập không cao, vừa khéo đủ dùng.

* Dễ quay vòng vốn tiểu ngạch.

* Kiến tha lâu đầy tổ, kiểu gì cũng có lợi.

* Thích hợp "đi làm công ăn lương".

5.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Tài Bạch:

* Thích hợp với "tiền lương ổn định", hoặc làm ăn lấy tiền mặt.

* Vất vả kiếm tiền, cực nhọc mới có lợi nhuận.

* Cách cục mà tốt thì vất vả, bày mưu tính kế, yêu thích kiếm tiền.

* Nữ mệnh rất dễ làm những công việc mang tính chất của người phụ nữ.

* Cách cục mà tốt, buôn bán nhỏ nhưng kiếm tiền to, góp cát thành đồi.

6, Tật Ách cung

6.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Tật Ách:

* Vật vờ, không chảy mồ hôi, đề phòng bị béo phì.

* Rất dễ thích ứng trong mọi hoàn cảnh.

* Đời sống vật chất khá hậu đãi, hưởng thụ.

* Vận gia đình tốt, ít phải lo nghĩ. Tấm lòng vàng.

* Ít bị "đau đớn" bởi những bệnh mãn tính lâu năm.

* Môi trường công việc tốt (Tật Ách chính là [cung Điền Trạch của cung Quan Lộc]).

* Ăn ở tốt với vợ con (Tật Ách chính là vị trí của người chồng).

* Có duyên với người già bên ngoại, bản thân mình cũng ăn ở tốt (Tật Ách chính là [cung Thiên Di của cung Phụ Mẫu], cũng chính là [cung Phúc Đức của cung Nô Bộc]).

6.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Tật Ách:

* Thân thể khỏe mạnh, cường tráng.

* Sức đề kháng mạnh, ít bệnh vặt.

* Sức sống khá mạnh, vận động nhiều.

* Nhưng đề phòng bị tổn thương do va chạm hay té ngã, hoặc do sự vận động dẫn đến tổn thương.

* Năng lực của người cha mạnh mẽ, quyết đoán và dễ có thành tựu.

* Thêm Kị thì tần suất hoạt động càng nhiều.

6.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Tật Ách:

* Dễ gặp thầy gặp thuốc khi bị bệnh.

* Hiếm khi tàn bạo, cử chỉ luôn văn nhã.

* Đề phòng sự do dự.

6.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Tật Ách:

* Vất vả, không được nhàn.

* Tận lực cho bổn phận, giữ gìn thành quả, cất giấu vào trong.

* Thêm Quyền thì vất vả vô cùng.

* Làm tăng ca, kiêm nhiệm chức vụ. Nữ mệnh thì rất dễ làm những công việc mang tính chất của người phụ nữ.

* Người cha chính trực, phúc hậu.

* Khó bị béo phì.

7, Thiên Di cung

7.1 Hóa Lộc năm sinh nhập cung Thiên Di:

* Hòa hợp không câu nệ, thân thiện, linh hoạt, hài hước, có duyên với người bên ngoài, hay nhận được sự hoan nghênh chào đón.

* Gặp hung hóa cát, gặp nạn lại được thấy lành.

* Duyên xuất ngoại tốt, có nhiều cơ hội xuất ngoại, hợp với việc "kiếm tiền ở bên ngoài".

* Thích hợp với "quan hệ xã hội" (PR), công việc "thuế vụ".

* Vận tuổi già tốt, tướng thọ.

* Hợp với "tiền lương ăn chia theo hoa hồng".

* Đề phòng kẻ xu nịnh giả vờ thật thà vì sẽ khiến cho không phân rõ được thị phi trắng đen, cũng nên đề phòng quyết đoán thái quá trong trường hợp "ra tay vì việc nghĩa".

* Gặp sao "Thiên Tài" thì thường đầu cơ, trúng thưởng.

(Tác giả chú: Thiên Di mà nhiều Lộc thì tiêu dao tự tại).

7.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Thiên Di:

* Tích cực, có chí tiến thủ, có sinh lực.

* Quyết đoán, can đảm, ứng biến, thông tuệ, có năng lực, sự khai sáng, kiến lập.

* Thích hợp các công việc lãnh đạo, khai phá.

* Thích hợp công việc chuyên môn, kỹ năng chuyên sâu, lợi ở sự thăng tiến, sáng lập sự nghiệp.

* Có thể hưởng lương cao hoặc lương theo ăn chia hoa hồng.

* Có thể giành được chức vị cao, địa vị xã hội cao.

* Cách cục xấu, sắc bén, tự phụ, không khiêm tốn, làm phách, kết oán.

* Gặp sao "Thiên Tài" thì thường đầu cơ, trúng thưởng.

(tác giả chú: Ở cung Thiên Di thì Quyền rất mừng được Lộc đến hội, sẽ đủ cả "năng lực" lẫn "hòa hợp", bổ sung qua lại cho nhau, mọi sự đều thuận).

7.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Thiên Di:

* Văn vẻ phong nhã, thanh tú, xinh xắn, hình tượng tốt đẹp.

* Đề phòng chuyện "mượn cớ che đậy", "lý do lý trấu".

7.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Thiên Di:

* Ngay thẳng, thành thật, hướng nội, chất phác, vô tư, không biết lấy lòng. Có tật hay quên, nghiêm túc, cứng nhắc, thiếu tâm cơ tính toán, không giỏi việc "quan sát nét mặt" của người khác mà hành động.

* Không khéo che đậy, không coi trọng hình thức bên ngoài.

* Vụng về trong chuyện "dịch mã" (QNB chú: tức là về di chuyển, đi lại, thay đổi, ứng biến,...)

* Hợp những việc vặt ít phải sắp đặt quản trị, chỉ lo lấy thân mình, thiếu năng lực nắm giữ đại cuộc.

* Không được cá độ, cờ bạc, đầu cơ vì Người tính không bằng Trời tính.

* Đề phòng thiếu tính nhẫn nại, không đủ ý chí.

* Nữ mệnh thì nên an tĩnh giữ bổn phận (không có tài thì giữ lấy đức) (hầu hết đều là cá tính của phụ nữ truyền thống).

* Cách cục xấu, đề phòng bất trắc, bệnh nghề nghiệp.

* Tu hành: Nhất thân thanh tĩnh đạt "La Hán quả vị".

8, Nô Bộc cung

8.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Nô Bộc:

* Đối với người khác đều tốt bụng hòa nhã, vui vẻ, nhân duyên tốt.

* Giành được "phúc bạn bè", dễ được bạn bè tương trợ.

* Đa tình (sao tình cảm).

* Ăn ở tốt với người phối ngẫu (Nô Bộc chính là cung Tật Ách của cung Phu Thê).

* Người phối ngẫu đẫy đà, dễ béo mập.

* Vận thi cử tốt đẹp.

* Kinh tế tốt, thuận lợi mà chi xuất nhiều (quản lý tài sản thiếu nghiêm cẩn).

* Anh em bên ngoại duyên tốt, sự nghiệp của cha mẹ suân sẻ thuận lợi.

8.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Nô Bộc:

* Dễ kết giao được bạn bè có năng lực tốt.

* "Anh em" có địa vị và thành tựu.

* Người phối ngẫu thân thể to lớn.

* Sự nghiệp của trưởng bối trong nhà có thành tựu.

* Vận thi cử mạnh (nếu như Hóa Kị của cung Nô Bộc nhập vào Tam phương của Ta thì ắt là kỳ phùng địch thủ).

* Cách cục tốt, kết giao bạn bè thì ta có thành tựu. Cách cục xấu, dễ bị bạn bè xỏ mũi dắt đi.

8.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Nô Bộc:

* Kết giao được những bàn bè mà đa phần đều khiêm tốn.

* Có tình bạn dài lâu, quân tử chi giao.

* Ít kết giao với những bạn bè bất lương.

8.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Nô Bộc:

* Là người "luyến tiếc tình cảm", nghĩa khí, trọng nghĩa khinh tài, coi trọng lời hứa.

* Tán tài, ít tích trữ, quản lý tài chính không nắm được mấu chốt, khó tiết kiệm (Kị xung Huynh Đệ cung - chính là Khố vị).

* Người phối ngẫu vất vả không được nhàn, đề phòng hôn nhân thiếu thú vị.

* Vận thi cử kém.

* Còn đề phòng cuộc sống nhiều thăng trầm, hợp với an định đi làm công ăn lương.

* Phòng thân thể không đủ mạnh khỏe.

* Bất lợi ở việc cạnh tranh, thăng tiến.

9, Quan Lộc cung

9.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Quan Lộc:

* Tiếp nhận cơ hội đơn lẻ một cách vững chắc.

* Chức vị khá như ý.

* Người phối ngẫu có duyên tốt với bên ngoài.

* Sức khỏe của con cái tốt (cung Quan Lộc chính là [cung Tật Ách của cung Tử Tức]).

* Đề phòng tình cảm ngoài hôn nhân, hoặc hôn nhân không giá thú (khi có đào hoa tinh).

9.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Quan Lộc:

* Tích cực, ứng biến, sức sống, năng lực đều tốt.

* Giỏi trong việc quản lý nguồn cung cấp, thu nhập tốt.

* Thích hợp những việc khai thác, mở rộng, phát triển, lãnh đạo, có lợi cho thăng tiến. Cũng có khả năng sáng lập sự nghiệp.

* Giỏi về chuyên môn, kỹ năng chuyên sâu.

* Năng lực của người phối ngẫu tốt, một mình đảm đương công việc.

* Sức khỏe của con cái tốt.

9.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Quan Lộc:

* Được quý nhân phò trợ (cung Quan Lộc chính là vị trí của vận khí).

* Ổn định có thừa, nhưng đề phòng không đủ sự dứt khoát kiên quyết.

* Hợp với làm công ăn lương, các công việc thiết kế hoặc làm quan văn, dân sự.

* Đề phòng làm việc "có nhiều do dự".

9.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Quan Lộc:

* Công việc bận rộn hoặc có nhiều áp lực nặng nề, thời gian công tác kéo dài.

* Chuyên chú, ôm việc vào 1 mình làm, vừa làm ông chủ vừa làm bồi bàn.

* Đi làm công ăn lương hưởng an ổn hoặc buôn bán nhỏ.

* Nữ mệnh thì rất dễ làm những công việc mang tính chất của người phụ nữ.

* Người phối ngẫu thẳng thắn cương trực, phúc hậu, không khéo nói lời đường mật. Nhưng đề phòng hôn nhân kém lãng mạn, thậm chí là bằng mặt nhưng không bằng lòng (hôn nhân Kị xuất).

* Đề phòng tình cảm ngoài hôn nhân, hoặc hôn nhân không giá thú (khi có đào hoa tinh). (Cung Phu Thê Kị xuất mà mất tình nghĩa, e rằng hôn nhân bị tổn hại).

* Khi còn nhỏ thì hợp "nhận cha mẹ nuôi", đem cho người nuôi dưỡng, nhận làm con nuôi (xung cung Phu Thê là hạn tuổi thơ).

* Cách cục xấu thì phiền lòng chẳng thuận. Cách cục tốt thì cũng nhiều mệt mỏi.

10, Điền Trạch cung

10.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Điền Trạch:

* Gia đình phúc hậu, gia đình vui vẻ, đời sống vật chất "hậu đãi".

* Được "tổ tiên che chở", thừa hưởng tổ nghiệp, đất tổ tiên có thể phát tích giàu sang.

* Cha mẹ an nhàn, sống thọ.

* Gặp sao "Thiên Tài" thì giàu có. Đông thời có thể theo nghề kinh doanh bất động sản.

* Chỗ ở có điều kiện tốt hoặc phòng ốc rộng rãi, nhà cửa có giá trị.

* Vượng về con cái, sinh được nhiều con, con cái khá có triển vọng thành tựu.

* Họ hàng thường xuyên qua lại.

* Có thể tự mình mở tiệm kinh doanh kiếm lời.

* Có duyên tốt với bất động sản, dễ mua bán hoặc thiết lập hay được giúp đỡ về tài sản.

* Nữ mệnh thì vượng phu ích tử.

10.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Điền Trạch:

* Bản thân dễ kiến lập khai sáng về tài sản.

* Cũng rất dễ sáng lập sự nghiệp.

* Gia đình có truyền thống nhiệt tâm hăng hái, sức sống dồi dào, hoặc gia giáo khá nghiêm.

* Nhà cửa to lớn, bất động sản có giá trị hoặc ở vị trí đoạn đường rất đẹp (vị trí đắc địa). Có thể tự mở tiệm kinh doanh hoặc cho thuê.

* Gặp sao Thiên Tài thì giàu có. Cũng có thể theo nghề bất động sản.

10.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Điền Trạch:

* Nhà cửa phòng ốc không to lớn, nhưng thoải mái dễ chịu và giản dị.

* Trong nhà có "hơi thở của dòng dõi học vấn", ít có sự tranh cãi ồn ào.

* Đời sống vật chất điềm đạm, không mưu cầu danh lợi.

10.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Điền Trạch:

* Áp lực của sinh hoạt.

* Nhà cửa phòng ốc cũ kỹ hoặc nhỏ bé, hoặc điều kiện ăn ở không được tốt.

* Gìn giữ, tằn tiện, an thân giữ phận, chăm lo việc nhà, vất vả khởi nghiệp.

* Hợp với việc an định, đi làm công ăn lương, buôn bán nhỏ kiếm tiền.

* Cách cục tốt thì "tích cát thành gò", kiến tha lâu đầy tổ, buôn thúng bán mẹt mà lãi quan viên.

* Ít người qua lại giao thiệp.

* Dễ là "con trưởng".

* Cha mẹ vất vả không có thành tựu, hoặc là có sự thất vọng.

11, Phúc Đức cung

11.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Phúc Đức:

* Vui vẻ hạnh phúc, vô ưu vô lo, sống vô tư, ít tính toán so đo.

* Thích đủ thứ vì hứng thú rất rộng nhưng mà lại thiếu kiên trì.

* Đề phòng lan man không tập trung, không tích cực, hững hờ vô tâm.

* Có phúc báo tốt, chẳng cầu mà được, lòng nghĩ thì việc sẽ thành, an nhàn có phúc. Gặp dữ hóa lành, hoặc họa chẳng sờ tới tấm thân.

* Thọ cao, tuổi già sung túc.

* Ít bị dày vò do bệnh kinh niên hay bệnh tật hiểm ác.

* Thích hợp với những công việc tinh thần hứng thú vui vẻ, tài hoa, tâm linh. Cũng có thể theo nghề nghiệp du lịch, nghỉ dưỡng, và những công việc mà bản thân yêu thích.

11.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Phúc Đức:

* Tích cực, hăng hái, tự tin, mưu đồ, dục vọng.

* Dám kiếm tiền dám tiêu xài, coi trọng đời sống vật chất.

* Phúc hậu, luôn có trách nhiệm.

* Đề phòng ham hố đao to búa lớn, lo giữ thể diện, xa xỉ phung phí.

* Nắm giữ kỹ năng, chuyên nghiệp, thường có thu nhập lớn.

* Làm ăn kinh doanh chất lượng cao (phong cách), vị trí đắt giá, cách làm rất táo bạo.

* Gặp sao Thiên Tài, đầu cơ, trúng thưởng, trúng số.

11.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Phúc Đức:

* An nhàn không màng danh lợi, tu tâm dưỡng tính, không thích hư hoa.

* Cá tính bình hòa, ôn tồn điềm đạm.

* Nội hàm, thanh cao, tĩnh lặng.

* Rơi vào hoàn cảnh cấp bách thì lại được gặp quý nhân.

11.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Phúc Đức:

* Coi trọng hưởng thụ, dám tiêu xài (Tài Bạch Kị xuất)

* Đề phòng tính cố chấp quá nặng mà không thể lấy đại cục làm trọng, hoặc ham thú chơi bời hay là mê muội cái đẹp mà không thể tự kiềm chế.

* Thích hợp với các công việc sáng tạo theo hứng thú như thiết kế, nghiên cứu (gặp được Lộc, Quyền thì sẽ hiển đạt).

* Cũng rất thích hợp làm các nghề dịch vụ như trung gian môi giới, tư vấn, viết thuê, kế toán, kỹ thuật (Kị xung Tài Bạch, không thích hợp tính chất "gom hàng, trữ hàng" hay là "dồn vốn, đọng vốn").

* Bớt có những đam mê xấu như lợi dụng, tửu, sắc,... để tránh khỏi "mê tình vọng dục", cũng đề phòng chấp vào yêu hận, ưa thích mà tự làm hại cho tương lai.

* Mệnh cách xấu thì nghiệp lực nặng, dễ lo bò trắng răng, khéo lo trời sập. Nữ mệnh càng lộ rõ.

* Hoặc số phận có các kiểu khốn đốn như trái ngang, ly biệt, bị vùi dập.

12, Phụ Mẫu cung

12.1, Hóa Lộc năm sinh nhập cung Phụ Mẫu:

* Vẻ mặt ôn hòa, kính cẩn lễ độ.

* Có duyên tốt với người trưởng bối, cha mẹ thấu hiểu.

* Lợi cho việc đọc sách, học hành, thi cử, công chức.

* Giành được sự che chở tí ấm của cha mẹ, cũng dễ được cấp trên đề bạt.

* Nhà ngoại (chồng) có gia cảnh tốt.

* Con cái có sự nghiệp thuận lợi.

* Đề phòng a du gièm pha, tán tụng giả tạo.

12.2, Hóa Quyền năm sinh nhập cung Phụ Mẫu:

* Đề phòng "được lý không tha cho người khác", "ngạo mạn vô lý", gay gắt, không khiêm tốn, cá tính rất xung động.

* Lợi cho việc đọc sách, học hành, thi cử, công chức.

* Đọc nhiều sách thánh hiền thì lời lẽ có sức mạnh. Học tập chuyên nghiệp, kỹ thuật thì có sức thuyết phục.

* Cha mẹ có tính chủ kiến rất mạnh.

* Sự nghiệp của con cái có thành tựu.

12.3, Hóa Khoa năm sinh nhập cung Phụ Mẫu:

* Văn vẻ, khiêm hòa, có khí chất.

* Nói năng nhã nhặn, ôn hòa.

12.4, Hóa Kị năm sinh nhập cung Phụ Mẫu:

* Hỉ nộ đều lộ ra nét mặt, dễ đắc tội với người khác.

* Kém duyên với cha mẹ.

* Cha mẹ cố chấp, không dễ thông hiểu.

* Cá tính nghiêm túc, cứng nhắc, không khéo biểu đạt, không biết lấy lòng.

* Đọc sách, học hành, thi cử đều cần nghiêm túc chăm chỉ. Chăm chỉ thêm 1 chút thì sẽ thu được thành tựu nhiều hơn 1 chút.

* Các cục tốt, hiếu thuận, thích đọc sách. Cẩn thận đề phòng thành con mọt sách.

* Không giỏi "nhìn sắc mặt mà nói chuyện".

* Cần cố gắng "trách nhiệm hiếu dưỡng".

CÁC CÁCH CỤC TRONG TỬ VI

Các Cách Cục cũng phân chia thành Thượng Cách (hay còn gọi là Chính Cách) và kém hơn một chút gọi là Thứ Cách, được nhiều điểm có tính chất ưu việt cho cục diện tốt thì ta gọi là Thượng Cách, nếu được ít hơn thì gọi là Trung Cách (còn gọi là Thứ Cách). Nếu ở nơi Tử Tuyệt, sao lại lạc hãm, không có cát hóa, không có cát tinh, lại gặp sát hung tụ hội thì gọi là Hạ Cách.

Thí dụ, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.

Ngoài ra, nếu như một Cách Cục tốt đẹp đã được thành lập, nhưng lại bị Không Vong hay các sát tinh không hợp đến xâm phạm làm hỏng hoặc suy giảm đi tính chất tốt đẹp thì được gọi là Phá Cách.

Thí dụ, Mệnh hay Điền, Tài cung, mà có Thiên Phủ tại Mùi gặp Tả Hữu Xương Khúc, lại có Nhật Nguyệt giáp ở hai bên gọi là cách “Nhật Nguyệt giáp Tài”, nhưng có Không Vong án ngữ ở Ngọ Mùi thì sẽ khiến cho Cách Cục trên bị rơi vào Phá Cách.

Bên cạnh đó, đối với một cách cục vốn có tính chất xấu, nhưng lại có sự cát hóa bởi Tam Kỳ và các cát tinh, khiến cho các tính chất của Cách Cục lại phản chuyển thành tốt đẹp, thì được gọi là Phản Cách.

Thí dụ, Mệnh có Thiên Đồng ở cung Tuất là cách xấu, trong 4 sao của Cách Cục này thì có Cơ Nguyệt Đồng toàn hãm (Thiên Đồng tọa bản cung) chỉ có Thiên Lương được đắc miếu. Nhưng nếu người mà sinh vào năm Đinh thì ba sao đang phản bối kia đều đồng loạt hóa cát, Nguyệt hóa Lộc, Đồng hóa Quyền, Cơ hóa Khoa.

Lại có một dạng Phản Cách nữa, đối với một cách cục vốn có tính chất xấu, nhưng nhờ có các Không Vong hay thêm Hóa Kị mà biến đổi theo cái lý biến dịch là “vật cực tắc phản”, “cùng tắc biến”, “biến tắc thông”. Tuy nhiên, các phản cách này xét cho tường tận các phụ tinh cát và vận trình mới được, nếu không rất dễ sai lầm.

Thí dụ, “Mệnh Vô Chính Diệu gặp Tam Không”, “Liêm Tham Tị Hợi ngộ Tuần hoặc Kị”, “Tham Lang cư Tý ngộ Triệt Tuần”, “Cơ Âm Diêu Hồng ở Dần Thân ngộ Tuần Triệt”, “Âm Dương ở Sửu Mùi gặp Không Vong hoặc Kị”,…

Dưới đây, xin giới thiệu về 49 Cách cơ bản, được phân chia thành 4 Cục:

I. Phú cục (Nhóm các cách giàu có)

1. Tài Ấm giáp Ấn (Tài tinh và Ấm tinh giáp với Ấn tinh)

Cung Mệnh hay cung Điền, Tài có Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ, có Lương giáp cung (Ấm tinh là tên riêng của Thiên Lương cũng như Thiên Ấn là tên riêng của Thiên Tướng). Bên giáp còn lại có Cự Môn hóa Lộc năm Tân.

2. Phủ Ấn củng Thân (Phủ Ấn củng chiếu cung an Thân)

Cung an Thân có Phủ, Tướng (hội cát tinh) hợp chiếu.

3. Kim xán quang huy (Ánh sáng vàng của mặt trời xán lạn)

Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Ngọ, có Nhật tọa thủ.

4. Nhật Nguyệt giáp Tài (Nhật Nguyệt giáp với Tài tinh)

Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Sửu có Tham, Vũ tọa thủ đồng cung. Hay tại Mùi có Phủ tọa thủ, có Nhật, Nguyệt giáp cung. (Tài tinh là tên riêng của Vũ Khúc vì Vũ Khúc chủ tiền bạc).

5. Nhật Nguyệt chiếu bích (Nhật Nguyệt cùng chiếu vào bức vách)

Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Sửu, có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu; hay an tại Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu.

6. Tài Lộc giáp Mã (Tài tinh và Lộc tinh giáp với Thiên Mã)

Cung Mệnh hay cung Điền, Tài có Mã tọa thủ, có Vũ, Lộc giáp cung.

II. Qúy cục (có danh chức, quyền qúy)

1. Kim dư phù giá (Phù trợ bên xa giá xe vàng của vua)

Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ tại cung Mệnh, hay Quan Lộc có Tả, Hữu, Thiếu Dương, Thiếu Âm giáp cung, nên ví như xe vàng phò vua

2. Tử Phủ triều viên (Tử Phủ chầu cung viên)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Phủ chiếu, hay có Phủ sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Tử Vi chiếu.

3. Phụ Bật củng Chủ (Phụ Bật củng chiếu Chúa tinh)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ có Phụ - Bật hợp chiếu.

4. Quân thần khánh hội (Vua tôi mừng xum họp)

Cùng như trên, nhưng có thêm đủ bộ Xương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng hội hợp.

5. Phủ Tướng triều viên (Phủ Tướng chầu cung viên)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Phủ sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Tướng chiếu hay có Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Phủ chiếu.

6. Vũ Khúc thủ viên (Vũ Khúc thủ cung viên)

Vũ thủ Mệnh viên tại Mão.

(QNB chú: đã đối chiếu với TVĐS Toàn Tư và các tài liệu khác, đúng là tại cung Mão, tuổi Canh có Tam hóa liên châu).

7. Cự Cơ Mão Dậu (Cự Cơ ở cung Mão cung Dậu)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Mão, Dậu, có Cự, Cơ tọa thủ đồng cung.

8. Thất Sát triều Đẩu (Thất Sát chầu về Tử Vi)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Dần, Thân có Sát tọa thủ và có Tử, Phủ (đồng cung) xung chiếu.

9. Tham Hỏa tương phùng (Tham Hỏa gặp gỡ)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tứ Mộ, có Tham tọa thủ gặp Hỏa đồng cung.

10. Nhật xuất Phù Tang (Mặt trời mọc ở xứ Phù Tang)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Mão, có Nhật tọa thủ.

11. Nguyệt lãng Thiên Môn (Trăng sáng ở cửa trời)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Hợi có Nguyệt tọa thủ (Hợi thuộc quẻ Kiền là biểu tượng của Trời nên gọi là Thiên Môn).

12. Minh Châu xuất hải (Ngọc sáng xuất hiện trên biển)

Coi Qúy cục 13. dưới đây.

13. Nguyệt sinh thương hải (Trăng sáng ở biển xanh)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tý, có Nguyệt tọa thủ (Tý thuộc quẻ Khảm là biểu tượng của nước, của biển cả, nên gọi là thương hải).

14. Nhật Nguyệt đồng lâm (Nhật Nguyệt cùng đến)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Sửu, có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu; hay an tại Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu.

(Cách này giống với cách "5.Nhật Nguyệt chiếu bích" ở Phú Cục, chính là điều sách nói "Nhật Nguyệt đồng độ xét đối cung".)

15. Nhật Nguyệt tịnh minh (Nhật Nguyệt cùng sáng rạng rỡ)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Sửu có Nhật tọa thủ tại Tỵ và Nguyệt tọa thủ tại Dậu hợp chiếu hay an tại Mùi có Nhật tọa thủ tại Mão và Nguyệt tọa thủ tại Hợi hợp chiếu.

(Chỗ "Nguyệt tọa thủ tại Dậu" trong sách viết nhầm là "Nguyệt tọa thủ tại Hợi").

16. Nhật Nguyệt giáp Mệnh (Nhật Nguyệt giáp cung Mệnh)

Coi Phú cục 4 nhưng đây là có danh chức quyền qúy

17. Lộc Mã bội Ấn (Lộc Mã tô điểm cho Ấn)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Thiên Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ, có Lộc, Mã giáp cung.

(QNB chú: hoặc Mệnh, Quan ở Dần Thân có Vũ Tướng đồng cung với Lộc Mã).

18. Hình Tù giáp Ấn (Hình tinh và Tù Tinh giáp với Ấn tinh)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Ấn tọa thủ, có Hình, Liêm giáp cung (Hình là tên riêng của Kình Dương, cũng như Tù là tên riêng của Liêm Trinh).

(QNB chú: Liêm với Tướng không bao giờ ở giáp cung cả, chỉ có thể hiểu chữ “giáp” ở đây nghĩa là đứng cạnh nhau trong một cung ở Tý/Ngọ, có Kình Dương đồng cung).

19. Mã đầu đới kiếm (Đầu ngựa treo kiếm)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Ngọ, có Kình tọa thủ, có Hình, Mã hợp chiếu, nên ví như đầu ngựa có mang thanh kiếm.

(QNB chú: cách này muốn cát thì Kình cư Ngọ phải đồng cung với Đồng Âm, là người tuổi Bính tuổi Đinh, thêm Phượng Các và Giải Thần càng tốt, được quý cách nhờ cát hóa. Nếu không thì là hung cách).

20. Kình Dương nhập miếu (sao Kình Dương ở chỗ miếu địa)

Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tứ Mộ, có Kình tọa thủ. Tốt đẹp đối với tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

21. Tọa Qúy hướng Qúy (Ngồi ở chỗ quý nhân mà nhìn về hướng quý nhân)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khôi tọa thủ và có Việt chiếu, hay có Việt tọa thủ và có Khôi chiếu.

22. Văn Tinh ám củng (Văn tinh ám hợp, củng chiếu)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Xương tọa thủ và có Khúc chiếu, hay có Khúc tọa thủ và có Xương chiếu. Nếu gặp thêm Khôi, Việt, Tuế hội hợp lại càng rực rõ

23. Khoa Quyền Lộc củng (Được cả Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khoa, Quyển, Lộc hội chiếu

24. Qụyền Lộc sinh phùng (Được gặp Quyền, Lộc tương trợ cho)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Quyền, Lộc, Sinh tọa thủ đồng cung.

25. Khoa minh Lộc ám (Khoa sáng, Lộc ngầm trợ)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khoa tọa thủ và có Lộc nhị hợp hay có Lộc tọa thủ và có Khoa nhị hợp.

26. Minh Lộc ám Lộc (Lộc sáng, Lộc ngầm trợ)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Hóa Lộc tọa thủ và có Lộc Tồn nhị hợp, hay có Lộc Tồn tọa thủ và có Hóa Lộc nhị hợp

27. Tài Ấn giáp Lộc (Tài tinh và Ấn tinh giáp với Lộc tinh)

Cung Mệnh hay Quan Lộc có Lộc tọa thủ, có Vũ, Tướng giáp cung.

III. Bần tiện cục (nghèo hèn)

1. Sinh bất phùng thời (Sinh ra không gặp thời)

Liêm thủ Mệnh tại Dần Thân gặp Tuần, Triệt án ngữ.

2. Nhất sinh cô bần (Một đời cô đơn ngèo khó)

Phá thủ Mệnh tại Dần, Thân gặp nhiều Sát tinh mờ ám xấu xa xâm phạm.

3. Tài dữ Tù cừu (Tài tinh với Tù tinh là thù địch)

Vũ hay Liêm mờ ám xấu xa thủ Mệnh, gặp nhiều Sát tinh xâm phạm.

4. Nhật Nguyệt tàng hung (Nhật Nguyệt tàng ẩn cái hung)

Nhật, Nguyệt mờ ám xấu xa thủ Mệnh, chiếu Mệnh hay giáp Mệnh.

5. Quân tử tại dã (Người quân tử phải ở chốn thôn dã, quê mùa)

Mệnh có nhiều Sát tinh mờ ám xấu xa hội hợp.

6. Lộc phùng lưỡng sát (Lộc tinh gặp cặp sát tinh)

Lộc Tồn hay Hóa Lộc thù Mệnh, gặp Không, Kiếp đồng cung.

7. Lưỡng trùng hoa cái (Cả đôi bị hại)

Coi Bần tiện cục 6. ở trên.

8. Mã lạc Không Vong (Mã lạc vào chỗ Không Vong)

Mã thủ Mệnh gặp Tuần, Triệt án ngữ.

IV. Tạp cục

1. Cẩm thượng thiêm hoa (Áo gấm được thêu thêm hoa)

Cung Mệnh, Thân sáng sủa tốt đẹp, vận hạn lại rực rỡ, nên ví như gấm thêu hoa.

2. Phong vân tế hội (Gió mây gặp gỡ, vận hội hanh thông)

Cung Mệnh, Thân mờ ám xấu xa, nhưng vận hạn lại rất tốt đẹp nên ví như rồng mây gặp hội.

3. Khô mộc phùng Xuân (Cây khô gặp được mùa xuân)

Cung Mệnh, Thân xấu xa mờ ám, nhưng vận hạn lại tốt đẹp, nên ví như cây khô gặp mùa xuân, tuy vậy, không được toàn mỹ như Phong Vân Tế Hội.

4. Y cẩm hoàn hương (Áo gấm về quê)

Lúc ít tuổi vất vả lật đật vì gặp hạn xấu xa, nhưng về già lại an nhàn khá giả vì gặp hạn tốt đẹp, vậy cho nên thường ví như mặc áo gấm về làng.

5. Thủy thượng giá tinh (Ánh sao trên nước)

Hạn một năm tốt rồi lại một năm xấu, không đều đặn, nên ví như bóng sao chập chờn trên mặt nước.

6. Cát Hung tương bán (Lành dữ mỗi thứ một nửa)

Cũng như trên, nhưng đôi khi cứ nửa năm hành thông rồi lại nửa năm bế tắc.

7. Bộ số vô y (Bước nhảy của số trong hạn không nương theo nhau)

Vận hạn trước sau, xấu tốt không rõ rệt, may đi liền với rủi, kéo dài liên miên, nên ví như người ốm đi bộ lâu mà không tìm thấy thầy thuốc.

8. Lộc xung Mã khốn (Lộc bị sát tinh xung, Mã bị vậy khốn)

Hạn gặp Sát, Lộc, Mã hội hợp và Tam Không xâm phạm, Lộc, Mã bị nguy khốn nên coi là hạn xấu.

Phụ luận

- Phú cục và Qúy cục trình bày sơ lược ở trên rất cần phải xa lánh Tuần, Triệt, Sát tinh và Bại tinh. Ngoại trừ Qúy cục 9, 16, 22 gặp Sát tinh cũng không bị chiết giảm mất sự tốt đẹp. Nếu Sát tinh sáng sủa, dĩ nhiên lại càng thêm rực rỡ.

- Phú cục và Qúy cục rất cần gặp Khoa, Quyền, Lộc hội hợp, như vậy mới được toàn mỹ.

- Bần tiện cục trình bày sơ lược ở trên, nếu gặp Tuần, Triệt án ngữ (không kể Bần Tiện Cục 1, 3) cũng đỡ xấu xa, và nếu gặp chêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp, chắc chắn là trở lại tốt đẹp.

Tóm Tắt các Cách Cục

Thuật số Tử Vi, ảo diệu khôn lường

Bởi tại Âm Dương, Ngũ Hành Động Tĩnh

Cách Cục phân định, xét đến cát hung

Phú Quý Tạp Bần, chia ra tứ cục.

I - Phú Cục sáu cách, xem Mệnh, Điền, Tài.

“Nhật Nguyệt giáp Tài”, “Lộc Tài giáp Mã”

“Nhật Nguyệt chiếu bích”, “Kim xán quang huy”

Giàu có ai bì “Tài Ấm giáp Ấn”

Thân duy nhất cách, “Phủ Ấn củng Thân”.

II - Quý Cục quyền danh, hai mươi bảy cách

Mệnh Quan chính cách, Thân cư thứ chi.

“Tử Phủ triều viên”, “Kim dư phù giá”

“Phủ Tướng triều viên”, “Quân thần khánh hội”

“Phụ Bật củng chủ”, “Vũ Khúc thủ viên”

“Thất Sát triều đẩu”, “Mão dậu Cự Cơ”

“Tham Hỏa tương phùng”, “Phù Tang Nhật xuất”

“Nguyệt sinh thương hải”, “Nguyệt lãng thiên môn”

“Nhật Nguyệt đồng lâm”, “Minh châu xuất hải”

“Nhật Nguyệt tịnh minh”, “Nhật Nguyệt giáp mệnh”

“Lộc Mã bội Ấn”, “Hình Tù giáp Ấn”

“Mã đầu đới kiếm”, “Nhập miếu Kình Dương”

“Tọa Quý hướng Quý”, “Văn tinh ám củng”

“Khoa Quyền Lộc củng”, “Quyền Lộc sinh phùng”

“Minh Lộc ám Lộc”, “Khoa minh Lộc ám”

“Tài Ấn giáp Lộc”, định là Quý Cục.

III - Những kẻ nghèo hèn, thuộc Bần Tiện Cục

Mệnh chính, Thân thứ, tám cách sau đây

“Mã lạc không vong”, “Lộc phùng lưỡng sát”

“Sinh bất phùng thời”, “Nhật Nguyệt tàng hung”

“Nhất sinh cô bần”, “Lưỡng trùng hoa cái”

“Tài dữ Tù cừu”, “Quân tử tại dã”.

IV - Tạp Cục tám cách, có cát có hung

“Thủy thượng giá tinh”, “Cát hung tương bán”

“Phong vân tế hội”, “Cẩm thượng thiêm hoa”

“Khô mộc phùng xuân”, “Hoàn hương y cẩm”

“Bộ số vô y”, “Lộc xung Mã khốn”.

Phú Quý toàn mỹ, tối ái Tam Kỳ

Xa lánh sát tinh, Triệt Tuần cũng kị

Riêng Bần Tiện Cục, lại ái Triệt Tuần

Cát chiếu xa gần, khả dĩ tốt đẹp.

CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

Tính chất Nam Bắc đẩu của các sao là gì, và dùng như thế nào?

Tính chất Nam Bắc đẩu của sao có nguồn gốc gắn liền với lý luận của Thiên Văn Học trường phái Cái Thiên. Cổ nhân căn cứ vào việc Diện Bắc (hướng mặt về phía bắc) hay Diện Nam (hướng mặt về phía nam) trong lúc quan sát Thiên Văn để mà phân chia các sao cùng các thiên tượng mang tính chất Nam đẩu hay Bắc đẩu. Việc làm đó bao hàm luôn tính Âm Dương theo bắc nam và theo ngày đêm (xem lại ở chương Thiên Văn trong bài giảng).

Vào môn Tử Vi Đẩu Số, việc phân chia tính chất Nam Bắc đẩu của các sao là bao hàm ý nghĩa Âm Dương động tĩnh, sự sớm muộn theo thời gian của chúng, để phục vụ cho việc luận đoán. Kể cả những người nghiên cứu Tử Vi lâu năm cũng rất ít người phân biệt rõ được ý nghĩa này. Bởi vì bản thân các sao đều đã có nói đến thuộc tính âm dương rồi.

Tuy nhiên cần phân biệt rõ, thuộc tính âm dương của các sao mà sách vở nói đến là thuộc tính âm dương theo Ngũ Hành, những thuộc tính này chủ yếu dùng để phân định cát hung của sao đồng thời phối hợp tính chất của các sao tạo thành các Cách. Thí dụ, Thất Sát là Dương Kim đới Hỏa thì nó hợp tính với Kình Đà là Âm Kim đới Hỏa nên khi Thất Sát miếu vượng có thể dụng được cặp sát tinh này. Hay Thiên Tướng là Dương Thủy thì có thể khắc chế được hung tính của Liêm Trinh là Âm Hỏa. Hoặc Thiên Lương là Âm Mộc đới Thổ thì có thể khắc chế được Phá Quân là Âm Thủy, nhưng mà Âm khắc Âm là Thiên Khắc cho nên vẫn không được toàn vẹn, cho nên cần có thêm Lộc Tồn là Dương Thổ cùng đến khắc chế Âm Thủy của Phá Quân, cho nên mới nói chỉ có Thiên Lương là có thể chế được tính hung của Phá Quân và Lộc Tồn có thể chế được tính cuồng của Phá Quân,...

Còn tính Âm Dương động tĩnh sớm muộn của các sao theo Nam Bắc đẩu lại có công dụng riêng biệt khác, khi gán thuộc tính cho các sao nếu mà cứ gọi là âm dương thì sẽ bị lẫn lộn dễ gây hiểu nhầm với âm dương tính theo Ngũ Hành, do đó mà cổ nhân mới dùng cái thuộc tính Nam đẩu hay Bắc đẩu để mà gọi.

Cái ứng dụng thuộc tính khi đoán số của chúng rất rõ ràng, thí dụ như:

- Cung Tử Tức mà có nhiều sao thuộc Nam đẩu thì sẽ sinh được nhiều con trai hơn con gái hoặc là sinh con trai đầu lòng sẽ dễ nuôi hơn là sinh con gái đầu lòng, bởi vì do Nam đẩu chủ dương, Bắc đẩu chủ âm.

- Nếu như hạn gặp các sao thuộc Nam đẩu thì khả năng sinh con trai rất cao, sinh con trai trong hạn này mới dễ nuôi, dễ hợp với cha mẹ hơn; hoặc hạn gặp các sao thuộc Bắc đẩu thì khả năng sinh con gái sẽ rất cao, sinh con gái trong hạn này mới dễ nuôi và dễ hợp với cha mẹ hơn.

- Nhập hạn gặp Nam đẩu tinh thì hợp với Dương Nam Âm Nữ, gặp Bắc đẩu tinh thì hợp với Âm Nam Dương Nữ. Các sách cổ gọi là Nam đẩu thì ban phúc cho Dương Nam Âm Nữ, còn Bắc đẩu thì ban phúc cho Âm Nam Dương nữ. Thực chất mà xét về thuộc tính âm dương thì đó là sự thuận lý âm dương, cho nên khi đã thuận lý thì gọi là hợp là được hưởng phúc, do đó mà cát hung cũng theo đó mà có thay đổi về cường độ, nếu hạn xấu mà hợp với sao thì bớt xấu, hạn tốt mà hợp với sao thì tăng tốt.

- Đối với các Bắc đẩu tinh thì ứng kỳ cát hung của chúng xảy ra vào nửa đầu của hạn, còn đối với các Nam đẩu tinh thì ứng kỳ cát hung của chúng xảy ra vào nửa cuối của hạn. Bởi vì Bắc đẩu thì chủ sớm mà Nam đẩu thì chủ muộn. Đây là điều rất quan trọng để phân chia các khoảng thời gian (kỳ hạn) trong một hạn nào đó để mà đoán lúc sự việc cát hung xảy ra.

- Ngoài ra, thuộc tính Nam Bắc đẩu còn cho phép chúng ra xem xét phối hợp các sao trong các Cách để phân rõ hơn tính chất cát hung. Thí dụ như Kình Đà là Bắc đẩu trợ tinh, cho nên tính sát của chúng ảnh hưởng đến các sao thuộc Bắc đẩu ít hơn và ảnh hưởng nhiều tới các sao thuộc Nam đẩu. Hay như Hỏa Linh là Nam đẩu trợ tinh cho nên tính sát của chúng ảnh hưởng ít tới các sao thuộc Nam đẩu và ảnh hưởng nhiều tới các sao thuộc Bắc đẩu,...

Hóa Khí của sao?

Trong Tử Vi ta thường hay bắt gặp các thuật ngữ "sao A hóa khí là...", "sao B hóa khí là...", ví như: Tử Vi hóa khí là Đế Tòa (ngôi đế vương), Tử Vi hóa khí là tôn quý; Thiên Cơ hóa khí là Thiện (lương thiện) ; Thái Dương hóa khí là Quý (quan chức quyền quý); Vũ Khúc hóa khí là Tài (tiền tài),... Kình Dương hóa khí là Hình ; Đà La hóa khí là Kị.

"Hóa khí" này của sao là mô tả tính chất đặc trưng điển hình của sao đó, nhưng tính đặc trưng này lại được coi như một trạng thái khí tiềm ẩn. Nói nôm na thì "hóa khí" này đại khái như là "năng khiếu / bản năng / bẩm tính trời phú" của sao vậy. Tùy vào điều kiện mà cái năng khiếu của nó được phát huy hay bị mai một.

Ví dụ như, Thiên Đồng hóa khí là Phúc, Thiên Lương hóa khí là Ấm, Thiên Cơ hóa khí là Thiện, thì ở những nơi miếu vượng đắc các sao ấy sẽ biểu lộ rất rõ tính chất tốt đẹp ấy của chúng, người mang sao ấy (đắc miếu) thủ Mệnh sẽ toát ra cái vẻ hiền lành phúc hậu, lương thiện,... ấy gọi là năng khiếu được môi trường thuận lợi mà phát huy thành tài năng. Còn như vào nơi hãm địa thì những tính chất ấy bị mai một, bị kiềm chế nên chẳng phát huy được sở trường của mình, như Đặng Thái Sơn mà không cho ông ấy ôm cây dương cầm mà lại tống vào khoa cơ khí trường Đại Học Bách Khoa thì ấy gọi là năng khiếu bị thui chột vậy.

Lại ví như, Liêm Trinh hóa khí là Tù, Cự Môn hóa khí là Ám, Kình Dương hóa khí là Hình, Đà La hóa khí là Kị, thì ở những nơi miếu vượng các sao này bị kìm hãm tính hung tính xấu của chúng, có thể phát huy được tính tốt như Liêm Trinh khi ấy sẽ là liêm khiết, thẳng thắn, chính trực, khuôn phép,... Cự Môn sẽ thành ăn nói khéo léo, hùng biện thuyết phục, Kình Dương như cây kiếm trong tay Dương Quá đại hiệp, Đà La như nghiên mực như bột màu của mấy ông họa sĩ. Thế nhưng, nếu một khi mấy ông này lại rơi vào hãm địa hoặc đi với cách cục môi trường xấu, đảm bảo là tính chất đặc trưng - "hóa khí" kia sẽ phát động ầm ầm mà gây họa, như Liêm hãm ở Tị Hợi thì các cụ bảo là dễ đi tù là vì thế, Kình Dương cư Ngọ là cách "mã đầu đới kiếm" (kiếm treo ở cổ ngựa) rất hung hiểm là vì thế, Đà La cư hãm địa thì có lắm bệnh/tật dai dẳng nếu Đà với Nhật Nguyệt cùng chỗ Đà hãm thì nó như đám mây đen che mờ Nhật Nguyệt nên mắt dễ bị đau, bị tật, cha mẹ dễ có tai ách,...

Nói tóm lại, điều kiện để hóa khí mang tính tích cực là miếu vượng hay kiêm cả hóa cát Khoa Quyền Lộc thì sao hiển lộ tính hóa khí tốt đẹp (cát), còn hãm địa hoặc kiêm hóa hung Kị thì sao hiển lộ tính hóa khí xấu/tiêu cực (hung).

Hóa khí nó có bà con họ hàng gì với Tứ Hóa (Khoa, Quyền, Lộc, Kị) hay không, thì tôi cần bản điều tra dân số của ông Trần Đoàn thì mới trả lời chính xác được.

Kỳ thực, Tứ Hóa là trạng thái thăng hoa, là đặc quyền của 11 ông ủy viên thường trực liên hợp quốc (Chính Tinh) và 4 ông ủy viên không thường trực (Tả Hữu, Xương Khúc) trong chu kỳ 10 năm. Mỗi năm có ông nhất định nào đó sẽ được cầm đầu quản lý một mảng, tiền tài lương thực, chính trị quyền lực, học vấn sức khỏe bệnh tật và và các vấn đề xung đột.

Ở những năm mà ông ấy không được quản lý mảng của mình thì ông ấy chẳng có tí liên quan gì đến các tính chất của mảng ấy cả. Thí dụ Liêm Trinh chỉ quản lý mảng tiền tài lương thực (Hóa Lộc) vào năm Giáp, còn lại các năm khác thì chẳng có tính chất liên quan gì đến mảng ấy.

Như vậy là nó khác với "hóa khí" - là tính đặc trưng luôn có của sao - chính là ở điểm này.

Vậy khi sao Hãm Địa mà hóa cát Khoa Quyền Lộc thì như thế nào?

Quá tốt, được thế thì còn gì bằng, nó ví như trạng thái từ vịt mà hóa thiên nga, từ vũng bùn mà thoát xác thành chói lọi, cho nên phú có câu:

Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.

Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.

(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Đinh thì Thiên Đồng hóa Quyền, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra chủ đại quý.

Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, nhưng với người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, gọi là hóa cát, như thế lại thành ra được tài lộc cao chót vót).

Mệnh có Thiên Đồng ở cung Tuất vốn là chỗ hãm, nhưng người tuổi Đinh thì (ở bản cung Đồng hóa Quyền) ở Ngọ có Lộc Tồn, ở Dần có Cơ Âm hóa Lộc hóa Khoa, ở Thìn có Cự Môn hóa Kị (đắc Mộ cung), cùng xung và củng chiếu thì định là chủ đại quý, nếu thêm sát tinh thì dễ theo tăng đạo, định là hạ cục.

Cự Môn tọa Mệnh tại Thìn Tuất cung vốn là hãm địa, nhưng người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, lại được ám hợp Lộc Tồn ở Dậu (khi Mệnh ở Thìn), được Lộc Tồn ở Dậu giáp Mệnh (khi Mệnh ở Tuất), tất sẽ chủ phú quý, nếu thêm sát tinh thì không phải như vậy.

Đại thể là bố cục của các Chính Tinh trong các Cách nói trên đều đang hãm đặc, nhưng được hóa cát hầu như toàn diện, cho nên phát huy tính chất tốt đẹp tính tích cực theo Khoa Quyền Lộc, hạn chế và giảm thiểu tính xấu tính tiêu cực do vị trí hãm gây ra.

Trong môn Tử Vi Đẩu Số có nhiều sao được tách ra nhằm phân lập nhóm tính chất hay không?

Thưa có, rất nhiều là đằng khác, nhưng trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, nhiều sao đã bị lược bỏ đi vì một phần để đơn giản hóa cho gọn, một phần là do người đời sau tùy tiện bỏ đi vì không hiểu rõ tác dụng của nó.

Tôi thí dụ sao Tuế Phá, còn được gọi với tên khác là Đại Hao (tên này ngày nay ai học môn Phong Thủy sẽ biết ngay vì bây giờ vẫn dùng), lại còn có tên khác là sao Lan Can (ai học môn Thất Chính Tứ Dư, Quả Lão Tinh Tông thì biết sao này). 3 cái tên đều chỉ 1 sao, cũng có thể gọi là 3 sao cùng chung 1 chỗ, cũng có thể gọi là 3 sao được tách ra đại diện cho các nhóm tính chất riêng mà mỗi sao đại diện cho một nhóm.

Cái tên Phá với Hao thì dễ hiểu vì tính chất hao phá, hao tán, yếu thế,... cho nên việc tách ra không mang nhiều ý nghĩa, bỏ cái tên Hao đi vẫn có thể hiểu được nó nếu dùng tên Tuế Phá và hiểu hết tính chất ý nghĩa của nó. Cái tên Lan Can vốn mang nghĩa cái hàng rào, cái lan can,... để đại diện cho nhóm tính chất ngáng trở, ngăn chặn, cô lập, yếu thế,... bỏ cái tên Lan Can đi thì vẫn có thể tạm chấp nhận được nếu hiểu kỹ ý nghĩa và tính lý của sao Tuế Phá còn có tác dụng ngăn cản, cản trở. Nhưng bở đi rồi thì khiến cho hậu học sẽ bị mất một căn cứ rất khó để nhận ra sự hữu dụng và cần thiết của nó.

Cái hữu dụng đáng quý ấy là cái gì? Thưa, là cái rất quan trọng để hóa giải trường hợp Mã ngộ Không Vong.

Ai học Tử Vi cũng biết rằng "Mã ngộ Không Vong chung thân bôn tẩu" tức là cả đời phải bôn ba lang bạt, không yên vị, không ổn định về tinh thần lẫn vật chất. Nhưng hầu như không có ai biết được yếu tố gì có thể hóa giải được trường hợp này. Trong khi các sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư và Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập có viết sờ sờ ra rằng "Phàm Mã ngộ Không Vong hữu Lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô Lan giả tắc vi tán Mã" nghĩa là Hễ mà Mã gặp Không Vong có "Lan" có yên cương thì là cát, thì có sự ngừng lại, còn nó mà không có "Lan" thì là ngựa chạy tán loạn lung tung. Sách viết rõ vậy đấy, nhưng vì hầu như không ai biết đã từng có cái sao Lan Can cho nên chẳng ai hiểu được cái chữ "Lan" trong câu ấy để ám chỉ là cái gì, thành ra đã bỏ qua một ý nghĩa rất quan trọng là khi mà Thiên Mã bị Không Vong án ngữ - nếu như có sao Lan Can thì sẽ như ngựa được có yên cương quản chế mà dừng lại không chạy tán loạn nữa.

Ngày xưa tôi từng nghe ai đó hoặc đã từng đọc ở sách nào đó (giờ tôi không nhớ rõ chi tiết), đã nói rằng "Đại Hao có thể giải Không Vong", thì ngay khi ấy tôi cũng bĩu môi mà cho rằng nói như thế là nhảm nhí. Nhưng về sau tôi suy ngẫm kỹ thì nói như vậy cũng có lý nhưng buộc phải hiểu Đại Hao mà người ta nhắc đến là tên gọi khác của sao Tuế Phá đồng thời ám chỉ Lan Can, và phải hiểu rằng cái tính hóa giải ở đây là nói cho trường hợp Mã gặp Không Vong.

Nếu mà đã thuộc cách an sao, thì sẽ rút ra một hệ quả rất quan trọng là những người tuổi Dần, Thân, Tị, Hợi sẽ được miễn nhiễm sự bôn ba lang bạt nếu như Mệnh Thân gặp cách Mã ngộ Không Vong, bởi vì 4 tuổi này nghiễm nhiên là Tuế Phá - Lan Can đã đồng cung với Mã nên dù có Không Vong án ngữ thì đã tự có sẵn yếu tố hóa giải sự bôn ba ấy rồi.

Điều này tôi đã kiểm nghiệm lại đúng rất nhiều trên các lá số thực tiễn, mọi người cũng có thể tự mình kiểm tra lại để đối chứng lý luận và thực tiễn.

Thế giới có ~ 7,6 tỉ người, vậy thì bao nhiêu người có chung 1 lá số tử vi?

Thông thường, để tính tổng số mẫu lá số TV có thể lập được, người ta vẫn tính theo công thức:

60 năm x 12 tháng x 30 ngày x 12 giờ x 2 giới tính = 518.400 lá số.

Nhưng công thức đó không phải là công thức tính đúng vì nó sai nhiều lắm.

Cần phải tính theo phương pháp sau:

a, 1 Năm Âm Lịch có Số ngày = 354 hoặc 355 ngày, năm Nhuận thì có 384 ngày.

b, Theo Lịch Pháp thì cứ 19 năm có 7 năm Nhuận, nên 60 năm có ~ thêm [21 + 1 = 22] tháng Nhuận nữa ~ 22 x 30 = 660 ngày.

Vậy 60 năm sẽ có Số ngày ~ = [(354 x 60) + 660] = 21.900 ngày.

c, Đối với Thủy Nhị Cục thì số mẫu lá số trùng lặp là 6/30.

Đối với Thổ Ngũ Cục thì số mẫu lá số trùng lặp là 12/30.

Vậy thì số mẫu lá số trùng lặp trên tổng số 5 loại Cục có tỉ lệ 18/150. Nên các mẫu lá số còn lại có tỉ lệ là (150 - 18)/150

d, Như vậy tổng số lá số ~ = [21.900 ngày x 12 giờ x 2 giới tính] x [(150 - 18)/150]

= 525.600 x [132/150] ~ = 462.528 lá số.

Rốt cuộc có ~ [7,6x10^9 : 462.528] là có 164.314 người có chung 1 lá số tv.

Vậy hơn 16 vạn người ấy chung 1 lá số tv thì liệu có chung 1 số phận hay không?

Thưa, dĩ nhiên là không.

Tính chất của Tuần Triệt và ứng dụng vào giải đoán lá số Tử Vi

- Tuần và Triệt đều là là các trạng thái Không Vong chứ không phải là Sao cho nên Tuần Triệt không có khả năng chiếu tới tam phương tứ chính như các Sao thông thường.

- Triệt là Không Vong theo đơn vị Can-Chi của Tháng nên có cường độ tác dụng nhanh, mạnh mẽ, và cũng có thời gian hiệu lực ngắn, khoảng Tiền Vận (30 năm đầu đời), sau khi chuyển sang Hậu Vận (từ sau khoảng 30 tuổi trở đi) thì Triệt giảm hầu như gần hết tác dụng.

- Tuần là Không Vong theo đơn vị Can-Chi của Năm nên có cường độ tác dụng không mạnh như Triệt, mà chậm rãi đều đặn ổn định về cường độ, nhưng kéo dài cả khoảng 60 năm cuộc đời.

- Không Vong tạo ra môi trường trống rỗng, nên cái dụng của “Không” lại là có khả năng chứa đựng thêm, như cái nhà mà không có khoảng không thì không thể ở được, cái cốc nước càng trống rỗng bao nhiêu thì càng có khả năng để chứa đựng thêm bấy nhiêu ứng với cái khoảng trống ấy, chứ cái cốc mà đầy nước rồi thì nó chẳng có khả năng chứa thêm chút nào nữa, dù là 1 giọt cũng sẽ tràn đi. Chính vì thế mà những người có Không Vong án ngữ tại Mệnh, dù phải chịu những bất lợi riêng do chúng gây ra, nhưng lại có được một số lợi điểm khác mà một trong số đó là trí thông minh hơn người, nếu Mệnh VCD mà có Không Vong án ngữ thì càng thông minh.

- Chính Tinh bị ảnh hưởng Không Vong của Tuần Triệt gây ra là mạnh hơn so với các Phụ Tinh.

- Triệt tác động mạnh lên cung Dương, người sinh năm Dương.

- Tuần tác động mạnh lên cung Âm, người sinh năm Âm.

- Tại các vị trí mà Tuần / Triệt án ngữ, nhiều người nghiên cứu môn Tử Vi đều biết các vị trí mà Không Vong án ngữ đều có sự trục trặc hay bất thường gì đó, nhưng rất nhiều người không phân tích được rõ ràng từng cái “trục trặc” với “bất thường” ấy cụ thể là gì. Thực ra thì các tính chất bất thường đó đều không nằm ngoài 4 hiệu ứng chính của Không Vong gồm:

+ Hiệu ứng thứ nhất tính tiêu tán đối với tính chất các sao: có tác dụng làm giảm tất cả các tính chất đặc trưng của các sao khác bất kể là cát hay là hung, nói cách khác thì Không Vong làm tiêu tán đi các tính chất đặc trưng của các sao, như khiến cho các tài tinh thì không tụ được tài lộc, các quý tinh thì không thể quý hiển, các quý nhân tinh không cứu trợ nâng đỡ, sát hung tinh bị suy giảm không sát phạt giết chóc, cát tinh bị suy giảm cát tính chẳng thể ban phúc ban may mắn,… Nên nhớ rõ, Không Vong chỉ làm giảm tính chất đặc trưng của các sao, chứ không làm đảo lộn tính chất từ tốt biến thành xấu hay từ xấu biến thành tốt, còn mức độ làm giảm như thế nào thì phụ thuộc vào cường độ mạnh yếu cụ thể của Tuần án ngữ hay là Triệt án ngữ, vị trí án ngữ ở cung âm hay dương, thời gian nào (xem lại các tính chất bên trên).

Không Vong làm tiêu giảm cường độ của miếu vượng đắc hãm, tức là các sao miếu vượng đắc mà gặp Không Vong án ngữ thì giảm độ sáng đi, còn những sao lạc hãm mà gặp Không Vong án ngữ thì sẽ bớt hãm đi, đây cũng là một trong những nhu cầu cần thiết lập các vị trí Không Vong trong cấu trúc lá số nhằm cứu trợ những Sao lỡ thời lạc vị vào các chỗ hãm.

+ Hiệu ứng thứ hai là tính chất cô lập, ảnh hưởng cản trở gây ngăn cách đến các tương tác chiếu (tức sự cộng hưởng tính chất phối hợp) của các sao, bộ sao: Bản thân nơi mà Không Vong án ngữ vốn vẫn được gọi là Cô, còn nơi xung đối với nó thì được gọi là Hư, do một nơi bị cô lập nên nơi xung đối với nó bị mất lực đối xung (không còn đối ứng) vì thế mà tự nhiên trở thành hư hão, mất cân bằng.

Tại những nơi mà Tuần / Triệt án ngữ thì các sao ở trong đó đều bị cô lập và hầu như không có khả năng chiếu ra bên ngoài.

Triệt thì ảnh hưởng mạnh cho nên chặn khả năng chiếu của các sao mạnh, đặc biệt là tại các cung Dương thì chia cắt hoàn toàn các tương tác giữa các sao, không cho chúng có sự cộng hưởng tính chất dù kể cả đó là các sao đôi sao bộ, ngăn các sao ở trong chỗ nó án ngữ chiếu ra, chặn các sao ở bên ngoài chiếu tới chỗ nó án ngữ; nhưng ở tại các cung Âm thì tính chất này yếu hơn 1 chút, những sao đôi sao bộ vẫn có thể có một chút cộng hưởng tính chất với nhau. Giữa 2 cung Âm Dương nơi Triệt án ngữ thì cũng bị cô lập không có tương tác ảnh hưởng giáp cung. Đây chính là nguyên cớ mà người ta đặt tượng cho Triệt là cái đao chặt chém, là cái khiên chắn đỡ, cũng là nguyên cớ dẫn đến hệ quả rằng cung Tật Ách mà có Triệt án ngữ thì không có tai ách bệnh tật hoặc dù có thì tật bệnh gì cũng khỏi nhanh chóng, rồi cung Mệnh mà có Triệt án ngữ thì dù tam phương có đầy rẫy sát tinh thì vẫn bình chân như vại vì không sợ xung sát gì cả,… Tuy nhiên, do thời gian ảnh hưởng của Triệt ngắn cho nên tới khi mà Triệt giảm tác dụng thì các sao lại có thể chiếu đi lại ra vào chỗ nó án ngữ như thường.

Tuần thì ảnh hưởng nhẹ hơn Triệt cho nên việc chặn khả năng chiếu của các sao cũng không mạnh, nó chỉ đủ lực để ngăn cản các sao ở bên trong chỗ nó án ngữ chiếu ra ngoài chứ cái môi trường trống rỗng nó tạo ra lại tạo điều kiện thuận lợi cho các sao bên ngoài chiếu tới chỗ nó án ngữ thuận lợi, nói cách khác thì gọi là Tuần cho phép các sao ở tam phương tứ chính chiếu vào nơi nó án ngữ, đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho các sao ở 2 cung Âm Dương nơi nó án có thể tương tác với nhau (mà gọi nôm na thì như 2 cung này được nối thông với nhau, ai muốn có thêm ví dụ về thông cung thì tìm lại bài luận của bác INDOCHINE về cung Phúc của ông Tân Mão). Đây chính là bản chất tạo ra cái tốt đẹp của cách Nhật Nguyệt Tịnh Minh với Mệnh an tại Mùi VCD có Tuần án ngữ, còn tại Quan ở Hợi có Thái Âm, tại Tài ở Mão có Thái Dương và Thiên Lương, cái cách này vẫn được cho rằng là có trên lá số của Khổng Minh. Tôi thì không quan tâm rằng có thật là lá số của Khổng Minh có cách cục như vậy hay không, mà tôi chỉ cần biết rằng cung VCD vốn đã chịu ảnh hưởng mạnh từ các sao ở các cung tam phương tứ chính, nay cung Mùi VCD lại có cả Tuần án ngữ thì nó sẽ nhận ảnh hưởng mạnh nhất từ Nhật Nguyệt Thiên Lương ở Hợi Mão chiếu về, kế đến là nhận ảnh hưởng mạnh từ Tử Vi ở Ngọ cung (vừa giáp hợp vừa có Tuần nối thông cung), cuối cùng mới là nhận ảnh hưởng từ Cự Đồng ở Sửu cung (bởi vì Cự Đồng ở Sửu là vị trí xung đối với Không Vong nên bản thân nó là vị trí Hư, nên dù vẫn có ảnh hưởng chiếu đến Mùi nhưng mà cường độ không phải là mạnh). Người có bố cục này, bản tính cực kỳ thông minh (đã VCD lại có cả Không Vong án ngữ, đồng thời được Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa) đường công danh quan quý phát mạnh vì Nhật Nguyệt đều miếu vượng, lại còn có ảnh hưởng của Tử Vi (vua) ở ngay bên cạnh, cho nên cổ nhân mới dùng tượng là “tá cửu trùng ư kim điện” (kề cận phò tá cho vua ở điện vàng). Nhân tiện, xét lại vấn đề người ta gán cho Khổng Minh lá số có cách này cũng không phải là ngoa, bởi vì ông ta thông minh và phò tá vua dựng đại nghiệp là điều mà ai cũng biết rõ, hơn nữa do Không Vong án ngữ tại Mệnh cung nên tuổi thơ của ông ta vất vả, phải đi xa khỏi nơi chôn nhau cắt rốn nương nhờ tại nhà chú - những cái này đều ứng hợp với các tính chất “thiếu niên tân khổ”, “thường phải ly tổ / rời quê đi xa thì tốt hơn”, rồi thì do vẫn có cả ảnh hưởng của Cự Đồng cho nên ông ta biện luận rất ghê gớm, mắng người cũng chua ngoa, thuyết phục người cũng rất khôn khéo. Tại đây, nếu nhìn nhận tinh tế một chút thì sẽ phát hiện rằng cái nguyên tắc cung VCD cần mượn ảnh hưởng của cặp Chính Tinh ở đối xung không phải công thức bất biến, mà còn phụ thuộc vào có xảy ra Không Vong án ngữ ở cung VCD hay ở đối cung hay không rồi mới định mức độ ảnh hưởng nặng nhẹ. Nhiều người kinh nghiệm hàng chục năm trời nhưng vẫn kêu oai oái khi luận về Mệnh VCD hay Mệnh có Không Vong là rất khó vì có lúc ứng lúc không, nhưng khi chúng ta nắm vững được nguyên lý Hư Thực và Chủ Khách như trường hợp này thì sẽ dễ dàng suy luận được lúc nào thì cần mượn cặp Chính Diệu đối cung mà luận, lúc nào thì phải coi trọng tam hợp chiếu trước rồi xét đến cặp Chính Diệu ở đối cung sau.

* Lưu ý 1: Ảnh hưởng của Tuần dù nói là nhẹ, nhưng cường độ của nó vẫn tác động rất rõ nét đến các Chính Tinh, , thí dụ như tại cung Mùi VCD, ở Hợi có Thái Âm miếu nhưng bị Tuần án ngữ, ở Mão có Thái Dương và Thiên Lương, thì Thái Âm vẫn bị Tuần ngăn cản không cho có sự cộng hưởng tương tác với Thái Dương mặc dù Nhật Nguyệt đủ bộ đủ cặp tính cộng hưởng mạnh, nếu ta luận cung Mùi hay cung Mão thì không cần chú trọng đến những ảnh hưởng của Thái Âm nữa. Nhưng với các Phụ Tinh thì lại cần lưu ý có sự khác biệt, thí dụ như cũng trường hợp trên mà tại Hợi có Văn Khúc và tại Mão có Văn Xương, thì Văn Khúc dù là bị Tuần án ngữ nhưng vẫn có sự cộng hưởng yếu tác dụng với Văn Xương, nguyên nhân là do Phụ Tinh chịu ảnh hưởng của Không Vong ít hơn so với Chính Tính, đồng thời do sự ngăn cản yếu của Tuần mà Văn Khúc vẫn có thể cộng hưởng (yếu) với Văn Xương là sao cặp của nó. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, nếu như ở 1 thế đứng khác, Văn Khúc ở Tuất bị Tuần án ngữ mà ta đang luận cung Dần hay cung Ngọ thì không cần chú trọng đến ảnh hưởng của Văn Khúc nữa, vì tại những cung Dần/Ngọ khi ấy không gặp được Văn Xương là sao cặp của Văn Khúc cho nên không có lực cộng hưởng đáng kể.

* Lưu ý 2: Do không phải là Sao độc lập mà là trạng thái “thăng hoa, xuất thần” theo từng đơn vị Thiên Can, cho nên Tứ Hóa là ngoại lệ đối với hiệu ứng cản trở khả năng chiếu của Tuần Triệt, tức là đối với Tứ Hóa thì có thể chiếu ra vào thoải mái những chỗ mà Tuần Triệt án ngữ, thậm chí càng là môi trường trống rỗng thì càng thuận tiện cho Tứ Hóa có tương tác mạnh. Đây là một trong những hệ quả mà tôi rút ra được sau khi phân tích bố cục của hàng trăm câu phú cổ, và khi nắm rõ tính ngoại lệ này thì ta sẽ dễ dàng hiểu được nếu đối chiếu với các phương pháp luận của các phái Tử Vi coi trọng Tứ Hóa, điển hình là phái Tử Vân - dù thuộc phái Tam Hợp chú trọng đến Cách Cục nhưng đồng thời coi trọng ảnh hưởng của Tứ Hóa, họ vẫn an Tuần Triệt nhưng khi luận số thì không thấy luận đến ảnh hưởng của Tuần Triệt. Đồng thời khi nắm được ngoại lệ này thì sẽ hiểu thấu bản chất vì sao 1 cung VCD có Không Vong án ngữ thì ảnh hưởng rất mạnh khi có các sao Tứ Hóa ở tam phương tứ chính, giáp cung, nhị hợp, lục hại.

+ Hiệu ứng thứ ba là sự phối hợp cả tính chất tiêu tán lẫn cô lập của Không Vong tới các cung chức: Như Tuần Triệt án ngữ tại Mệnh thì thường xảy ra sự cô độc, mồ côi, sớm xa cách người thân trong gia đình hoặc ít nhận được sự chăm sóc của cha mẹ anh em, thường phải ly hương,… như Tuần Triệt án ngữ tại Bào cung thì anh em thường ở xa cách nhau hoặc ở gần nhau nhưng khó hòa hợp,… như Tuần Triệt án ngữ tại cung Phúc thì phúc khí khó tụ, họ hàng ly tán, ngôi mộ của tiền nhân trong nhà mà ảnh hưởng trực tiếp lại thường đặt ở bãi trống hoặc sát cạnh đường đi (đường trống),… Những điều này còn phải nói rất nhiều nữa, nhưng chúng ta sẽ để dành khi tới phần luận về các cung chức.

+ Hiệu ứng thứ tư là tính chất mà Tuần Triệt gây ra sự đảo nghịch âm dương động tĩnh theo phân chia Nam Bắc đẩu của các Sao: Tính chất này ảnh hưởng trực tiếp tới việc luận ứng kỳ (thời gian xảy ra) của các sự kiện trong các hạn, như Bắc đẩu tinh thường ứng kỳ vào khoảng nửa đầu của hạn nhưng khi bị Tuần Triệt án ngữ thì nó sẽ bị đảo ngược tính âm dương động tĩnh khiến cho ứng kỳ rơi vào cuối của hạn (sẽ nói rõ khi luận Vận Hạn). Tính chất này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới việc luận về giới tính hoặc các thuộc tính âm dương đực cái của các Nhân Sự có liên quan khi luận tổng quát hay luận vào sự kiện trong hạn, thí dụ như Bắc đẩu tinh thì chủ đối với Người là nữ, đối với Con Vật là con cái, đối với Sự Vật hay Sự Việc là âm tính, nhưng khi bị Tuần Triệt án ngữ thì lại phải đoán những Nhân Sự đó đều mang dương tính, nam, đực,…

- Tùy thuộc vào vị trí, mà ngay trong 14 chính tinh thì phụ thuộc vào tính chất và động hay tĩnh của chúng mà có một số sao rất sợ Triệt, một số sao rất sợ Tuần, hoặc có sao lại thích gặp Triệt, có sao lại thích gặp Tuần. Những điều này thực chất đều là hệ quả gây ra do những tính chất và hiệu ứng đã kể trên của Tuần Triệt gây ra. Như những sao có tính động mạnh thì bị ảnh hưởng mạnh bởi Không Vong, những sao có tính tĩnh thì chịu ảnh hưởng nhẹ hơn, những sao có tính ám thì ưa gặp Không Vong, những sao có tính chất chủ tài chủ quý hiển thì sợ gặp Không Vong, những sao đang ở vị trí sáng đang miếu vượng thì sợ gặp Không Vong còn nếu đang ở vị trí mờ ám hãm địa thì ưa gặp Không Vong,…

Yếu tố giải họa Kình Đà là Phượng Các - Giải Thần

Sao Phượng Các nó cũng chính là sao Giải Thần luôn, trước môn Tử Vi Đẩu Số chỉ có 1 sao là Giải Thần thôi, nhưng một sao lại có nhiều tính chất độc lập nên mà cổ nhân khi thiết lập môn Tử Vi Đẩu Số mới tách sao này thành 2 sao riêng biệt để phân lập nhóm tính chất may mắn, hoa lệ, đẹp đẽ, dịu dàng, điềm vui mừng gắn với lễ nhạc và văn chương, chủ cái lầu gác, đường đi,... rồi đem gán cho 1 sao và đặt tên nó là Phượng Các. Còn để cho Giải Thần chuyên chủ về nhóm tính chất giải trừ, tháo gỡ, tách ra, làm tan đi, thông suốt, suôn sẻ,... với tác dụng chuyên cứu giải tai nạn.

Nguyên nhân đặt tên nó là Phượng Các lại xuất phát từ sao Long Trì. Cái sao Long Trì này vốn ban đầu chính là sao Quan Phù, nhưng cũng có các nhóm tính chất khác biệt cho nên được tách làm 2 sao, cho nhóm tính chất may mắn, hanh thông, biến hóa, vui mừng gắn với lễ nhạc văn chương, chủ cái sân, cái giếng, cái hồ,... gán cho 1 sao rồi đặt tên nó là Long Trì, bởi vì bắt đầu từ năm Tý thì Thái Tuế khởi tại Tý và cái sao ấy (Phù - Trì) khởi tại Thìn là chỗ tú Giác tú Cang có cầm tinh là con rồng nên mới lấy tên Long đặt cho nó. Đã có Long thì cái sao cặp đôi với nó khởi ở đối cung mà lại đi nghịch chiều được tách ra từ Giải Thần cần đặt tên là Phượng để tạo thành bộ Long Phượng là cặp hình tượng các linh vật cao quý may mắn. Đối với phần còn lại của sao Niên Phù (tên cổ của sao Quan Phù, còn gọi bằng tên khác nữa là Ngũ Quỷ Phi Phù) có nhóm tính chất chủ việc quan, việc công đường, hành chính, thưởng phạt, luật lệ,... thì đặt tên là Quan Phù.

Việc tách sao này là có chủ ý rất rõ ràng, thí dụ như nói hạn gặp Long Phượng với cát tinh thì thường cưới xin hoặc có con cái, những việc hỉ, việc vui mừng... thì phải dùng các tên ấy để nói cho rõ ý nghĩa, chứ không thể nói là hạn ấy gặp Quan Phù với Giải Thần được vì nó rất tối nghĩa, chẳng ai mà hiểu được những cái việc vui kia thì liên quan quái gì đến cái việc công đường luật lệ hành chính với giải trừ tháo gỡ cả, cái việc cưới xin là tác hợp đôi lứa mà lại nói hạn gặp sao chủ giải tán cởi bỏ là Giải Thần thì nó chối tỉ, chẳng ai chấp nhận được. Ấy thế mà trên lá số thì vẫn nghiễm nhiên xuất hiện 2 bố Quan Phù với Giải Thần ở trong hạn, bởi vì Quan Phù luôn luôn đồng cung với Long Trì còn Phượng Các luôn luôn đồng cung với Giải Thần mà. Đó chính là ý nghĩa của việc tách nhóm tính chất của 1 sao thành 2 sao chủ mỗi sao một nhóm tính chất độc lập, nhằm làm rõ ý tượng muốn đề cập.

Thế sao Long Trì có khả năng hóa giải họa của Kình Đà hay không?

Thưa, hoàn toàn KHÔNG THỂ, bởi vì Quan Phù (Long Trì) rất sợ gặp Kình Đà (tên cổ của Kình Dương là Dương Nhận), cái thằng Dương Nhận chủ tranh đoạt, cạnh tranh mà gặp Quan Phù (Long Trì) chủ việc quan, hình luật, thì luôn gây ra các sự kiện xui xẻo như dính đến kiện tụng, tranh cãi ở công đường, gây ra tai hối (tai nạn hối hận),...

Quan Phù (Long Trì) mà gặp sao Thiên Thương (tên cổ là Thiên Hao) thì gây ra chuyện vì dính đến quan tụng mà hao tán, bị hình phạt, đặc biệt rõ nét khi gặp thêm Thiên Hình.

Quan Phù (Long Trì) mà gặp Sát hung tinh tụ tập thì mắc nạn tù ngục như Công Dã Tràng chính là vì vậy.

Quan Phù (Long Trì) mà gặp Thiên Hình với Địa Kiếp thì mắc nạn bị tiểu nhân ghen ghét hãm hại, đẩy vào cảnh kiện tụng hoặc khiến cho rơi vào vòng lao lý, cũng chính là vì vậy.

Thế sao Giải Thần có tượng linh vật riêng hay không mà tôi lại phải dụng tượng con Phượng?

Nó có tượng riêng, đó là con Giải Trãi, là một loài thú thần thoại có sừng nom vừa giống con bò rừng, vừa giống con huơu con dê, loài này rất biết phân biệt phải trái, hễ ai tranh chấp cãi cọ thị phi thì nó liền xông ra húc cái bên sai trái. Trong truyện Tây Du Ký có nhắc đến con vật này đoạn thuật về con khỉ sáu tai biến làm Tôn Ngộ Không giả, đánh nhau khắp nơi từ âm ti cho đến thiên đình, cũng từng nhờ con thú này ra phân biệt ai là hàng xịn còn kẻ nào là hàng nhái, con Giải Trãi tuy biết được rõ kẻ giả mạo nhưng sợ con khỉ sáu tai kia pháp thuật cao cường nên không dám nói ra,...

"Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng" không nhất thiết là dâm cách!

Người nghiên cứu tử vi không thể không biết đến vòng trường sinh, gồm 12 vị trí theo thứ tự như sau: "Trường Sinh (1), Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng (5), Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai (11), Dưỡng". Chú ý rằng nếu tính Trường Sinh là vị trí 1 thì Vượng (tức Đế Vượng) luôn luôn ở vị trí 5, và Thai luôn luôn xung chiếu Vượng ở vị trí 11. Đây là hai sao đầu tiên của cách "Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng".

Trong tử vi vòng Trường Sinh có nghĩa là vòng Trường Sinh của ngũ hành cục; nhưng cần nhớ rằng ngũ hành cục chỉ là yếu tố "nhân" trong tam tài "thiên địa nhân". Muốn đầy đủ phải tính thêm hai tài còn lại là vòng Lộc Tồn (tức yếu tố thiên), và vòng Thái Tuế (tức yếu tố địa). Vòng Lộc Tồn gồm 12 sao theo thứ tự: Bác Sỹ (1, cùng cung với sao Lộc Tồn), Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân (5), Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh (11), Quan Phủ. Từ đó có thể thấy "Tướng Binh" chính là hai sao Vượng Thai của vòng Lộc Tồn. Vượng là thế mạnh. Kẻ ở thế mạnh dễ sinh sa đọa. Thai là hiểm họa của sự sa đọa chực chờ. Nên Vượng Thai ý nghĩa chính là cảnh bất ổn, dễ sinh tai họa đáng tiếc.

Đào Hồng là hai sao trong bộ tam minh. Đào Hoa là vị trí Mộc Dục của tam hợp địa. Hồng là yếu tố quân bình lại Thái Tuế, đại biểu tình cảm nhẹ nhàng. Đào Hồng trong tử vi đại biểu sắc (theo nghĩa sắc không của nhà phật).

Gom lại "Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng" là một cộng hưởng dễ sinh ra điều đáng tiếc liên quan đến "sắc". Vì thế thường ứng với họa Đào Hoa (gái bị dụ dỗ thất tiết, trai dính vào chuyện dâm đãng bất chính, vân vân…) Thế nhưng cộng hưởng này đều do phụ tinh tạo thành. Phụ tinh không thể nào vượt qua chính tinh. Trong trường hợp Al Gore chính tinh quá mạnh (Thái Âm miếu không bị Tuần Triệt xâm phạm, lại hóa Quyền) thì làm sao sa ngã nổi? Do đó Thai Vượng Tướng Binh Đào Hồng chỉ như những đóa hoa bên lề cuộc sống mà thôi.

"Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà" nghĩa là thế nào?

Linh là sao Linh Tinh, thuộc Hỏa nhưng đới Kim.

Xương là sao Văn Xương (cùng cặp với Văn Khúc), ứng với văn học nghệ thuật, thuộc Kim.

Đà là sao Đà La (cùng cặp với Kình Dương), sát tinh thuộc Kim.

Vũ là sao Vũ Khúc, là vũ tinh rất bất lợi cho nhân tình, chính tinh thuộc kim. Tính sát của Vũ Khúc nổi tiếng với câu "Vũ Khúc vi Quả Tú", Vũ Khúc đại biểu sự cô độc.

Linh Đà là cách tốt, Vũ Xương cũng là cách tốt. Nhưng cộng cả bốn lại thì Kim nhiều quá. Theo thuyết Âm Dương cái gì thái quá cũng đều xấu cả, nói gì đến kim là yếu tố sát. Vì thế "Linh Xương Đà Vũ" là cách xấu có tính sát. Nhưng Linh Xương Đà Vũ không phải là hung cách, do đó mới luận là gặp cảnh quá bất thuận, chỉ có tự sát mới giải quyết được mà thôi. Kim sinh thủy nên ví như tính kim quá nặng, phải gieo mình tự tử dưới nước (thủy) mới hợp lẽ âm dương.

Linh Xương Đà Vũ tóm lại là cách xấu. Gặp cộng hưởng này là chắc chắn bị cảnh bất xứng ý!

Lương Nhược Du Bổ sung thêm những tính chất sao

1, "Tử Vi", "Thiên Tướng", "Thiên Đồng", "Thiên Lương", "Tham Lang" đều là "Thọ tinh", chủ trường thọ. Nhưng nhập Mệnh thì không phát cho "người còn tuổi thiếu niên". Trừ sao Tham Lang thuộc sao "Thiên Tài" ra thì các sao còn lại đều là sao Chính Tài là sao "bổng lộc".

2, Phàm là những người được một chút sao Thiên Tài, thì nhóm kể trên mà an định là tốt.

3, Các sao Dịch Mã: "Thiên Cơ", "Thái Dương", "Thái Âm", "Văn Xương", "Văn Khúc".

Phàm là người có các sao Dịch Mã nhập Mệnh, đa phần có thói quen thích ngủ muộn. Về nhà khuya, đi ngủ trễ.

4, Các sao "Thiên Đồng", "Thiên Tướng", "Thiên Lương" đều là những "ông hòa thuận". Lại có thể chia tỉ mỉ hơn:

Thiên Đồng - bác trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, lý trưởng, già làng,...

Thiên Tướng - ông hòa thuận, hòa giải,...

Thiên Lương - bác chủ trì công đạo, phân xử, đúng mực.

5, Tổ hợp sao Vũ Khúc Thất Sát đại biểu nhà ga, hành lang đường sắt.

6, Thái Âm đại biểu khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, quán ăn, cái giường.

7, Thiên Hình đại biểu con cún, chó con. Phá Quân đại biểu chó lớn hoặc ngựa, trâu, bò.

8, Cự Môn hội Thiên Hình dễ tập luyện tà thuật. Tham Lang hội Thiên Hình dễ tập luyện chính thuật.

9, Phàm là cung Phu Thê được tọa thủ bởi Thiên Lương hoặc Thái Dương, Thái Âm, Thiên Cơ, Cự Môn, mà các tinh diệu này hóa Kị, thì sẽ dễ gặp cảnh "già trẻ cưới nhau" trong hôn nhân.

Sơ luận về Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số

1. Tứ hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị. Là thùy tượng của tổ hợp sao trong đẩu số ứng với thời gian. Cho nên, phối hợp tứ hóa để đoán cát hung phải lấy Sao làm thể, Tứ hóa làm dụng.

2. Hóa Lộc - Ngũ hành thuộc Kim, ứng số 4,9 ở phương tây, chủ về mùa Thu. Mùa thu - là lúc vạn vật thu tàng, thông qua gặt hái mà thu lợi. Cho nên Hóa Lộc chủ vất vả, được lợi, tài lộc, thực lộc, hưởng thụ, nhân duyên, giải ách, quý nhân, tình duyên, thông minh và tài nghệ. Khởi đầu của việc tốt (nguyên nhân dẫn tới cái sự tốt).

3. Hóa Quyền - Ngũ hành thuộc Hỏa, ứng số 2.7 ở phương Nam. Hỏa bốc lên mà chủ về nóng nhiệt. Nên Hóa Lộc chủ về thế lực, tranh chấp, thành tựu, nỗ lực phấn đấu, cao ngạo, sĩ diện, giá trị gia tăng, bá đạo, tự phụ, không khuất phục, cầm quyền, tài hoa, giỏi giang, chuyên kỹ thuật, cố chấp, quản lý chặt chẽ, phung phí, ngoại thương, bệnh cấp tính. Hóa Quyền tốt nhất là nên nhập Tài- Quan cung, còn nếu nhập vào Lục thân cung thì dễ xuất sinh tranh chấp, cọ sát.

4. Hóa Khoa - Ngũ hành thuộc Mộc, ứng với số 3,8 ở phương Đông, chủ về mùa Xuân. Mùa xuân thuộc Mộc, trong cái vòng sinh sôi bất tận thì chính là thời điểm manh nha, đâm chồi. Vì thế, Khoa chủ sinh trưởng, giáo hóa, công danh, thanh danh, thiện duyên, quý nhân, giải ách, khoa giáp, danh dự, quý trọng, thanh bạch, thuận lợi, cao thượng, khí chất tốt.

5. Hóa Kị - Ngũ hành thuộc Thủy, ứng với số 1,6 ở phương Bắc. Phương Bắc là nơi trời Đông lạnh giá. Vạn vật thu tàng, suy kiệt. Cho nên Hóa Kị chủ thu tàng, cất chứa, suy kiệt, không thuận, ẩn trạng, tình nghĩa, đạo nghĩa, quản thúc, bám dính, hung hiểm, dịch mã, tai họa, biến thiên, thua thiệt, tử vong, mê muội, tự ti, tật bệnh, phá tài, lục thân hình khắc, thị phi, quan tụng, tai nạn xe cộ.

6. Hóa Lộc tối kị Không Kiếp, Không Vong, Hóa Kị - đó là cách “Lộc phùng xung phá”. Rất tốt nếu được cát tinh, quyền tinh, khoa tình hội hợp.

7. Hoa Quyền mà tam hợp có Hóa Khoa, Khôi Việt thì chủ về văn chương, danh tiếng vang xa.

8. Hóa Khoa hội Khôi Việt Xương Khúc chủ về khoa giáp. Nhưng nếu gặp Kình Dương, Hỏa tinh thì dễ vất vả. Khoa hội Kiếp Không, chủ về khoa giáp bất thuận, có tài mà không gặp thời.

9. Hóa Kị mà lạc hãm, gặp hại thì càng hung hiểm. Gặp Kị tinh hội hợp hay xung phá đều là không tốt. Riêng kị tinh xung phá thì lại trở nên lợi hại.

10. Hóa Lộc nhập lục thân cung, thì gia đình tình nghĩa, lục thân tốt.

11. Hóa Quyền nhập lục thân cung, dễ gặp xung đột trong gia đình, nhiều ý kiến.

12. Hóa Khoa nhập lục thân cung thì tình cảm gia đình trước sau đều đẹp

13. Hóa Kị nhập lục thân cung, là sự quản thúc, quan tâm, thiếu nợ, là nghiệp quả.

14. Hóa Lộc nhập tài bạch cung, tài nguyên dồi dào, dễ kiếm tiền mà cũng dễ tiêu tiền.

15. Hóa Quyền nhập tài bạch cung, có khả năng quản lý tài chính, vận dụng tài chính.

16. Hóa Khoa nhập tài bạch cung, tài nguyên thuận lợi, việc làm tốt.

17. Hóa Kị nhập tài bạch cung, dễ vì tiền mà phiền não, nguồn tài chính cũng không thuận, câu nệ vào chuyện tiền bạc, dễ thành nô lệ của tiền bạc, việc làm tốt.

18. Hóa Lộc nhập Quan Lộc, vận khí cả đời tốt, có nhiều khả năng phát huy trên đường sự nghiệp.

19. Hóa Quyền nhập quan lộc, trong sự nghiệp thường được nắm quyền hành, là cách của ông chủ thực sự.

20. Hóa Khoa nhập quan lộc, Sự nghiệp bình thuận, công việc tốt, hợp với mình.

21. Hóa Kị nhấp quan lộc, cả đời gặp vận khí xấu, trên đường sự nghiệp ít nhất phải trải quan một lần khốn đốn mà về sau mới may ra có thành công. Là người rất câu nệ vào sự nghiệp.

22. Hóa Lộc nhập Điền trạch, là người nặng gánh gia đình, nhưng tuổi trẻ đã dễ dàng tạo dựng được sản nghiệp. Cũng là người biết quan tâm, lo lắng đến gia đình.

23. Hóa Quyền nhập điền trạch, thích gia trưởng, thích quản chế từ công việc trong nhà đến gia nhân. Đối với Lục thân thường dễ có tranh chấp. Tuổi trẻ dễ tạo dựng được điền sản.

24. Hóa Khoa Nhập cung Điền trạch, gia trạch bình thuận, trong gia đình, quan hệ trong gia đình tốt, tuổi trẻ dễ tạo dựng điền sản, gia phong nền nếp.

25. Hóa Kị nhập Điền trạch, gia trạch không thuận, thường gặp cảnh đau lòng trong gia đình, gia đình không hòa thuận. Phải vãn niên mới tạo dựng được điền sản của chính mình.

26. Họa Lộc nhập tật Ách, là người lạc quan, nhưng tuổi nhỏ thường nhiều tật bệnh.

27. Hóa Quyền nhập Tật ách, là người ngang ngược, tuổi trẻ thường gặp thương tích.

28. Hoa Khoa nhập tật ách, người có phọng độ, tuổi trẻ bình an, ít tật bệnh.

29. Hóa Kị nhập tật Ách, là người tự ti, nội tâm, tuổi nhỏ thường gặp nhiều tai ách.

30. Hóa Lộc nhập Phúc đức, là người thích hưởng thụ, tiêu tiền không biết tiếc, tâm tình thư thái, nhưng cũng là người bận rộn.

31. Hóa Quyền nhập Phúc Đức, là người tiêu tiền phung phí, người thường béo đầy, tâm không nhàn.

32. Hóa Khoa nhập Phúc đức, là người tiêu tiền có kế hoạch, tâm tình nhàn tản, bình hòa.

33. Hóa Kị nhập Phúc đức, không cso tiền tiêu, có tiền cũng không dám tiêu, cả đời vất vả, không một phút thanh nhàn.

34. Hóa Lộc nhập Thiên Di, đi ra ngoài dễ gặp quan hệ tốt

35. Hóa Quyền nhập thiên di, ra ngoài dễ tranh chấp, nhưng cũng rất dễ thành công, có quyền hành.

36. Hóa Khoa nhập Thiên Di, đi ra ngoài được bình thuận, gặp gỡ quan hệ tốt.

37. Hóa Kị nhập Thiên Di, đi ra ngoài bất thuận, lý hương lập nghiệp thì tốt, (càng xa càng tốt).

38. Hóa Lộc nhập Mệnh, Thông Minh, tự lập, quan hệ tốt, có khả ăng giải trừ tai ách.

39. Hóa Quyền nhập Mệnh, tính tự cao, phóng khoáng, chuyên quyền, cơ trí, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, hay chủ quan, thích quản chế tất cả mọi chuyện.

Lý giải lá số tử vi

Trong Tử vi đẩu số khi các lá số được sắp xếp, điều quan trọng nhất là xem cát hung của cung Mệnh, xem có được sinh vượng (cung vị của Trường sinh, Đế vượng), Mộ khố (cung Sửu là Kim khố, cung Mùi là Mộc khố, cung Thìn là Thủy khố, cung Tuất là Hỏa khố), sao Lộc tồn và sao Thiên mã rơi vào Không vong hay không, trong đó lấy sao Địa không, sao Tiệt lộ Không vong là đáng ngại nhất, Tuần không xếp ở vị trí thứ hai. Sao Mệnh chủ phạm Không vong là bất lợi nhất, sau đó sao Thân chủ phạm Không vong xếp ở vi trí tiếp theo. Sao Lộc tồn phạm Không vong, thì phát cũng không liền; sao Thiên mã phạm Không vong, thì cả đời bôn ba, mà tốn công vô ích. Nếu sao Lộc, Mã, Mệnh chủ và Thân chủ phạm Không vong, nhất định phải dựa vào thuộc tính Ngũ hành của cung vị của sao đó để phán đoán cát hung. "Kim không sẽ kêu", "Hoả không sẽ phát", đại hạn và tiểu hạn gặp phải mà được phúc. "Thủy không thì trôi nổi, Mộc không thì gãy, Thổ không thì sụt lún".

Tiếp đến là xem nạp âm mệnh chủ của Ngũ hành cục của bản mệnh thuộc sao nào. Mệnh Thủy nhị cục, lấy sao Phá quân là nạp âm mệnh chủ; mệnh Mộc tam cục, lấy sao Tham lang là nạp âm mệnh chủ; mệnh Kim tứ cục, lấy sao Vũ khúc làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Thổ ngũ cục thì lấy sao Cự môn làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Hỏa lục cục thì lấy sao Liêm trinh là nạp âm mệnh chủ. Lấy hung cát mà nạp âm mệnh chủ rơi vào vị trí của cung để phân biệt họa phúc, cát hung. Nếu cung vị đó là sinh vượng, hoặc tại cung vị của quý nhân (vị trí cung của sao Thái dương, Thiên khôi, Thiên việt) và đồng cung với Lộc tồn là cát lợi. Nếu cùng cung với sao Thất sát, Kình dương là mệnh hạ đẳng.

Sau đó, lấy sao Mệnh chủ làm chủ, sao Thân chủ làm phụ tá, dựa vào hung cát mà nó rơi vào vị trí của cung để phán đoán phú, quý, hèn, sang. Tiếp theo, xem vận cát hung của sao Tử vi và Thiên tướng rơi vào vị trí của cung. Nếu sao Tử vi gặp hung, sát tinh thì phải xem hung cát mà Linh tinh, sao Vũ khúc sở tại vị trí của cung, qua đó mới có thể phán đoán là mệnh phú quý hay không. Người thuộc mệnh quý, ắt phải xem mức độ miếu, vượng của sao Thái dương; người thuộc mệnh phú, ắt phải xem độ sáng tối của sao Thái âm. Nếu như sao Thái dương tọa mệnh cung Dậu, Tuất, Hợi, Thái âm ở Thìn, Tỵ, Ngọ, mệnh này không thể giữ được những gì đã có, phải rời xa quê hương xuất ngoại mới có cơ hội phát triển, cải biến vận mệnh. Người thuộc mệnh nghèo hèn cũng phải xem cát hung của cung Mệnh.

Trong lá số, nếu cung Mệnh tốt, gặp lưu niên, đại tiểu hạn tốt, không gặp bất cứ trở ngại nào, tự nhiên sẽ phát vượng, cả đời sung túc. Đó là mệnh phú quý.

Trong lá số, nếu cung Mệnh kiên cố, bền vững làm cho vận mệnh không được như ý, nhưng vẫn được bình an vô sự là mệnh bình ổn.

Trong lá số, nếu cung Mệnh không gặp cát tinh, không thể kiên cố, lại gặp ác tinh, sát tinh phần lớn đều do xuất thân nghèo hèn. Nếu có thế phát tài bình ổn, cũng là do gặp 10 năm đại hạn tốt, 10 năm sau lại dần dần lụi bại, tài tán nhà tan, gặp phải việc không như ý, là mệnh nghèo khổ, bần cùng.

Nếu con người từ khi sinh ra đã giàu có mà không bị phá hoại, hưởng phúc đến già, đây ắt là do mệnh, hạn tương hợp, từng bước tiếp cận, nâng đỡ nhau, sao nhập cung miếu 5, 10 năm cũng không thất vận. Nếu người sinh ra đã được vui vẻ, hưởng phúc, vợ vinh con quý, đến trung niên lại gặp tai ương, hao người tốn của, hoặc thương vong, nhất định do trụ không vững, hoặc xuất hạn giao hạn, từ cát chuyển thành hung, trung niên phạm sát tinh chiếu mệnh hạn, hoặc sao rơi vào cung lạc hãm, lại thêm Thái tuế gặp hung, vận hạn đến đó, không nghèo khổ thì cũng chết yểu. Nếu một người sinh ra đã nghèo hèn, ban đầu rất gian khổ, đến trung niên trở nên vượng phát, tài lộc như ý, uy quyền xuất chúng, đều do sinh tại trung cục, các sao vận hạn trung niên đều mạnh, lại thuộc miếu vượng, là mệnh trước khổ mà sau sướng.

Vận mệnh phú quý của con người đã định sẵn trong bản mệnh mỗi con người, làm sao có thể phân biệt được sinh tử? Với vấn đề này, trước tiên phải xem đại hạn và xem tiểu hạn. Đại hạn chủ về phúc họa trong vòng 10 năm, tiểu hạn chủ về thăng trầm trong vòng 1 năm. Đại vận suy, thì 10 năm sẽ rơi vào lận đận khốn khó, cho dù tiểu hạn được vượng cũng chỉ hưởng phúc trong 1 năm.

Đại hạn đã suy, tiểu hạn cũng không có tác dụng gì. Đại hạn tốt tiểu hạn xấu không quá đáng lo ngại. Vì thế, cho dù lưu niên không lợi nếu đại hạn vững vàng, kiên cố, tai họa sẽ giảm nhẹ đi. Nếu luận sinh tử trước hết xem cung Mệnh có sát tinh không. Nếu Thái tuế lưu sát giao hội đối xung vị trí của cung tiểu, đại hạn, mà sao Tử vi, sao Lộc tồn đều là lạc hãm, lại chịu sự kiểm soát của Không vong, lúc này nếu 3 sao Tử vi, Thiên tướng ấn tinh, Lộc tồn tài tinh tam hợp hội chiếu, có thể giải trừ được tai ách, tuy bại mà không nguy; nếu không, sẽ gặp tai họa có liên quan đến tính mạng.

Cách cục của lá số vừa xác định, có thể dựa vào Chính tinh của cung Mệnh, đế đoán định tính cách của bản mệnh. Nếu cung Mệnh, một tinh cấp, một tinh chậm, lại có thể phán đoán được tính cách bất thường của họ, thiện ác khó phân định, ba phải, thiếu lập trường quan điểm. Nếu cát tinh nhập cung Mệnh, thì chủ nhân có tính cách nhân từ, phúc đức, là cách cục thượng hảo. Nếu ác tinh, sát tinh nhập cung Mệnh, thì bản tính ác độc ngang ngược. Ngoài ra, nếu có thể tham khảo quan hệ sinh khắc của Ngũ hành, thì suy đoán vận mệnh càng thêm tỉ mỉ, chính xác.

Khi sử dụng Ngũ hành phải xem xét mối quan hệ sinh khắc giữa đôi bên, lại xem chúng rơi vào cung nào. Nếu ngũ hành của sao Thất sát thuộc Hỏa, nếu rơi vào cung Dần, Dần thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa. Ngũ hành của sao Vũ khúc thuộc Kim, nếu đồng cung với sao Thất sát, Hỏa của sao Thất sát khắc chế Kim của sao Vũ khúc, sao Vũ khúc không thể phát huy được vai trò. Nếu Kim nhập Hỏa, là chịu hạn chế; nếu Kim nhập Thổ là đắc địa.

Bất luận con người có vận mệnh phú, quý, sang, hèn, nếu mệnh rơi vào cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi trong lá số, chủ về sự vất vả. Nếu lại giao hội các sao động như Thiên mã, Thiên cơ, Thái âm, Thái dương..., thì đặc tính của mệnh vất vả, gian truân càng nổi bật. Nếu mệnh rơi vào cung Tý, Ngọ Mão, Dậu, chủ về bất lợi, hiếu sắc, thích giao du, đàng điếm, chuyện tình duyên cả đời lận đận, lại gặp các sao đào hoa như: Tham lang, Liêm trinh, Thiên diêu, Hàm trì, Hồng loan, thì đặc tính đào hoa càng nổi trội. Nếu mệnh rơi vào cung Thìn, Tuất, Mùi, Sửu thì chủ về hình (hình khắc), cá tính bảo thủ, cô độc, rời xa quê hương, nếu lại gặp sao Phá quân, Cự môn, thì tính cách cô độc. Do cung Thìn và cung Tuất là Thiên la, Địa võng, ngưòi thuộc cung này nhất định muốn phá vỡ khuôn khổ và nguyên tắc, vì thế đặc tính tha hương càng thể hiện rõ.

Ngoài ra, 12 cung vị trong lá số, đều có thuộc tính ngũ hành riêng. 12 Địa chi của năm sinh cũng có những hợp kỵ không giống nhau. Vì thế, vị trí của cung Mệnh, Thái tuế, lưu niên và đại, tiểu hạn mà chúng tiến đến gần, hung cát họa phúc của chúng có liên quan đến năm sinh của con người.

Ngũ hành sinh khắc của cung và sao

Khi lý giải về vận mệnh trong Tử vi đẩu số, nếu có thể lý giải được mối quan hệ tương sinh tương khắc của âm dương Ngũ hành giữa sao trong các cung của lá số tốt thì việc lý giải mới càng chuẩn xác. Ngũ hành bao hàm 5 yếu tố: Kim, Thủy, Mộc Hòa, Thổ. Nếu theo trình tự này gọi là Ngũ hành tương sinh lần lượt là Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Ngũ hành tương khắc lần lượt là Kim khắc Mộc, Thủy khắc Hỏa, Mộc khắc Thổ, Hỏa khắc Kim, Thổ khắc Thủy. Ngũ hành sinh khắc trong mệnh cục cần đạt đến trạng thái trung hòa, bình ổn quá thịnh hay quá suy, đều không tốt.

TƯƠNG SINH

- Dương sinh dương, âm sinh âm: Tương sinh vô tình, khó tránh khỏi sự trục trặc, khó khăn.

- Dương sinh âm, âm sinh dương: Tương sinh hữu tình, ý có thể lâu dài, quý giá nhất.

TƯƠNG KHẮC

- Dương khắc dương, âm khắc âm: Đồng tính tương khắc, là hung khắc vô tình.

- Dương khắc âm, âm khắc dương: Dị tính tương khắc, gọi là hữu tình tương khắc. Khắc hữu tình là trong khắc có sinh, là sự kích thích với mức độ phù hợp, thương hại không quá nặng.

Giữa các sao và các cung trong lá số, quan hệ Ngũ hành tương sinh giữa các sao với nhau, thông thường lấy 14 ngôi Chính tinh trong chòm sao Tử vi và chòm sao Thiên phủ, tiếp đến lấy 15 ngôi sao Giáp cấp trợ tinh còn lại làm phụ tá và phối hợp với sao Ất, Bính cấp tinh, để phán đoán mức suy thịnh mạnh yếu của Ngũ hành trong các cung.

Khi trong cung chỉ có một ngôi Chính tinh duy nhất, thì lấy Chính tinh là thể, lấy cung là dụng, và phối hợp Giáp cấp trợ tinh trong các cung với Ất, Bính cấp tinh để luận đoán vận mệnh.

Nếu có 2 ngôi sao đồng cung có thể dựa vào phương thức sau để luận đoán mệnh:

- Khi cát tinh với cát tinh đồng cung, 2 sao đều có thể gọi là thể dụng (nếu dựa vào độ sáng của 2 sao và độ suy thịnh Ngũ hành của chúng, chọn là thể hoặc dụng, sẽ càng chuẩn xác). Nguyên lý đó không chỉ hạn chế trong việc sử dụng nội bộ trong cung tam phương tứ chính, cũng có thể lấy cát tinh mà cung này chọn làm thể.

- Khi cát tinh và hung tinh đồng cung, lấy cát tinh là thể, hung tinh là dụng, đề phán đoán cát hung trong cung.

- Khi hung tinh và hung tinh đồng cung, phải căn cứ theo độ sáng miếu hãm của 2 sao, độ mạnh suy Ngũ hành sinh khắc của hung tinh khác và vị trí của cung với chúng để quyết định cái nào là thể, cái nào là dụng. Thông thường, đều lấy sao của cường miếu là thể, sao của suy hãm là dụng. Vì Ngũ hành sẽ biến thiên mạnh theo sự biến thiên của 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Vì thế, khi phán đoán sự thịnh suy của Ngũ hành giữa sao và cung vị, tốt nhất có thể xem xét mức độ cát hung và thịnh suy của Ngũ hành tại 4 mùa, để phán đoán thêm mới có thể chuẩn xác.

QUAN HỆ NGŨ HÀNH SINH KHẮC CỦA CUNG VÀ SAO

Học thuyết Ngũ hành là một trong những lý luận quan trọng của Tử vi đẩu số. Trong quá trình lý giải vận mệnh, nếu có thể lý giải được các cung trong lá số và đạo Ngũ hành sinh khắc chế hóa giữa các sao trong vị trí của cung tam phương tứ chính, và Ngũ hành sinh khắc giữa sao với cung, thì việc luận đoán, lý giải mói càng chính xác.

50 ĐIỀU TIÊN QUYẾT KHI GIẢI ĐOÁN

1. TỬ VI CÁCH CỤC TỐI TRỌNG ÂM DƯƠNG.

Cách cục trong khoa Tử Vi hầu hết dựa trên lẽ âm dương của dịch, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Khi dụng ngũ hành càng cần nắm vững dịch lý mới khỏi sai lầm.

2. HỌC GIẢ YẾU THÔNG "QUÁ HƯ CÙNG BIẾN".

Người học Tử Vi do đó cần hiểu lẽ "quá hư cùng biến" của dịch.

Quá Hư: Cái tốt quá độ trở thành hư hỏng.

Cùng Biến: Đang rất tốt nếu biến xấu thành rất xấu, đang rất xấu nếu biến tốt thành rất tốt.

3. NỮ TINH PHÚ, HIỂM Ố KỴ ĐÀO HOA.

Nữ tinh ám chỉ Thái Âm (đế tinh, tượng sự cực âm) và bốn sao ứng với 4 quái âm của dịch là Tham Lang (ứng với quái Tốn), Liêm Trinh (ứng với quái Li), Thiên Đồng (ứng với quái Đoài), Thiên Lương (ứng với quái Khôn). Các sao này hàm chứa tính âm yếu đuối nếu phong phú (tức Hóa Lộc) hoặc trong cảnh nguy hiểm (hãm địa hoặc hội họp nhiều sát, bại tinh và không gặp không vong); lại thêm các cách đào hoa tất ứng với sa đọa hoặc tai nạn.

4. TĨNH TÚ SÁT ĐA TOÀN VI BẤT HẢO.

Các sao nhóm tĩnh (Cự Cơ Nguyệt Đồng Lương) hợp với cảnh an bình, gặp nhiều sát tinh chắc chắn sẽ không tốt. (Nhật ngoại lệ vì là đế tinh dương mạnh mẽ).

5. CHÍNH TINH HÃM ĐẢO QUYỀN LỘC QUANG VINH.

Chính tinh hãm rất xấu, nhưng nếu hoá Lộc hoặc hóa Quyền lại trở thành tốt hơn cả chính tinh miếu vượng hoá Lộc hoá Quyền.

6. MIẾU VƯỢNG KỴ SINH PHẢN VI BẤT THIỆN.

Ngược lại chính tinh miếu vượng hóa Kỵ trở thành xấu hơn cả chính tinh hãm địa hoá Kỵ. Đặc biệt chính tinh miếu vượng hoá Kỵ thêm cách đào hoa dễ gây ra họa đào hoa; ngược lại các chính tinh chứa sẵn tính đào hoa, nếu lạc hãm hóa Kỵ lại khiến họa đào hoa khó xảy ra, vì hóa Kỵ mang tính phản đào hoa.

7. CHỦ HIỀN KHÁCH HIỂM QUÂN TỬ GIAN NAN.

Chính cung đa số sao hiền (cát tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao hiểm (sát bại tinh) ví như người quân tử gặp cảnh nguy nan. Dù đắc cách cũng rất mong manh, dễ bị phá hỏng.

Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là cát tinh, nhưng sao ở các cung hợp chiếu - nhất là cung xung chiếu - đa số là sát, bại tinh xấu xa ; nghĩa là mình tốt mà hoàn cảnh bất thuận, dễ gặp xui xẻo, tai họa.

8. CHỦ HIỂM KHÁCH HIỀN TIỂU NHÂN ĐẮC CHÍ.

Chính cung đa số là sao hiểm (sát bại tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao hiền (cát tinh), ví như kẻ tiểu nhân gặp cảnh đắc chí, mưu sự bất chính dễ thành.

Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là sát, bại tinh xấu xa, nhưng sao ở các cung hợp chiếu - nhất là cung xung chiếu - đa số là cát tinh; nghĩa là mình bản tính xấu mà hoàn cảnh thuật lợi, nên dễ thành công, lại hay đóng kịch là người tốt.

9. KÌNH DƯƠNG CƯ NGỌ VỊ YỂU CHIẾT HÌNH THƯƠNG

Tuổi Bính Mậu có Kình Dương ở Ngọ. Kình tượng thanh gươm, Ngọ tượng con ngựa nên gọi là cách "mã đầu đới kiếm". Ngọ là hãm địa của Kình Dương, lại thuộc hỏa khắc tính kim của Kình nên cách này hết sức nguy hiểm. Phú có câu "Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết nhi hình thương" nghĩa là có cách mã đầu đới kiếm cư mệnh không chết sớm cũng bị thương tật.

Nhưng vì lý "cùng tắc biến" lại có 3 kỳ cách như tiếp theo đây.

10. NHƯỢC HÃM LỘC QUYỀN TRẤN UY BIÊN ẢI

Theo lý "cùng tắc biến" của dịch một hoàn cảnh cực xấu biến thành tốt sẽ trở thành cực tốt.

Mệnh có Kình Dương cư Ngọ (hãm địa), cùng cung Đồng Âm (hãm địa), tuổi Bính Thiên Đồng hoá Lộc có Thiên Cơ hóa Quyền tam hợp (đắc Lộc Quyền), tuổi Mậu Thái Âm hoá Quyền có Thiên Cơ hóa Kỵ tam hợp (đắc Quyền Kỵ) là hai kỳ cách tốt đẹp "mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương", tạo nên sự nghiệp trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.

Kình Dương cư Ngọ (hãm địa) cùng cung với Tham Lang (hãm địa). Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc, cũng là kỳ cách "mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương". (Trái lại tuổi Bính mà gặp cách này là hoạn họa trùng trùng vì không được cát hóa ).

Chú ý: Tuổi Bính Thiên Cơ cư Ngọ (hoá Quyền) không hợp cách vì Thiên Cơ không hãm ở Ngọ, nếu gặp Kình Dương thì "phi yểu chiết nhi hình thương".

11. CƠ LƯƠNG QUANG QUÝ HÌNH LỘC DANH Y

Cơ Lương là hai sao tĩnh gặp sát tinh Thiên Hình hết sức nguy hiểm, khó tránh khỏi tai họa. Nhưng Hình không quá ác, có thể giải bằng Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng), hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may mắn). Nên nếu trong thế tam hợp có Lộc Hình Riêu thì Hình ứng với hành động quyết liệt nhưng xây dựng. Riêu ứng với thuốc đắng giã tật, Cơ Lương (không nhất thiết đồng cung) bản chất thích phục vụ nên hợp với nghề y dược; thêm Quang Quý (được người ưa thích) theo đuổi y học có cơ thành tựu lớn. Nếu Cơ hoặc Lương ở Sửu Mùi, có Tả Hữu giáp hai bên lại càng hoàn mỹ (xem thêm cách 12).

Các chính tinh khác gặp Hình Riêu Lộc Quang Quý cũng phù hợp ít nhiều với ngành y dược.

Xác suất càng cao nếu cư Quan Lộc thay vì Mệnh.

12. THẾ CỤC CHUYỂN DI LỘC HÌNH TỬ PHÁ

Tử Phá Sửu Mùi là cách chính tà tranh thắng nên cần Tả Hữu phò tá Tử Vi để Tử Vi đắc thế, chế ngự bớt tính phá hoại của Phá Quân. Trái lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình thì Hình tất sẽ về cùng phe với Phá Quân, buộc Tử Vi lùi bước. Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng) giảm được tính sát của Hình Phá, hóa Lộc (may mắn) giúp Phá Quân thành tựu. Do đó nếu Phá Quân hóa Lộc hoặc Tử Phá được Lộc Tồn hội họp gặp Thiên Hình lại là một kỳ cách hết sức tốt đẹp, ví như kẻ anh hùng có bản lãnh đổi thay thời cuộc, tạo nên sự nghiệp phi thường trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.

Lý tưởng nhất là Tử Phá có Tả Hữu giáp hai bên. Gồm có Tử Phá cư Sửu sinh tháng 9 (Hình tam hợp), tháng 11 (Hình xung chiếu); hoặc Tử Phá cư Mùi sinh tháng 3 (Hình tam hợp), tháng 5 (Hình xung chiếu). Bốn cách này Hình hội họp mà không cư cùng Tử Phá nên giảm bớt sát khí, đỡ lo tai họa.

13. TỬ VI QUYỀN PHỦ KHUYẾT TẢ DỤNG HÌNH

Tử Vi ở cung dương (thế tam hợp Phủ Tướng) thiếu Tả Hữu là cách "cô quân", ví như vua không có cận thần, thiếu hẳn hiệu quả; gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình lại càng bất lợi (tuy vậy không nguy hiểm vì Tử Vi có uy lực rất mạnh mẽ, Thiên Hình là sao sát nhưng có tính thuần dương nên thuộc chính phái, không chống lại Tử Vi). Nhưng nếu Tử Vi có hóa Quyền hội họp thì uy lực rất mạnh mẽ, khắc phục biến Hình thành phù tá đắc lực, là một kỳ cách. Lưu Huyền Đức vua nước Thục thời Tam Quốc có cách này ("Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp thi ư Tử Phủ Vũ Tướng Khoa Quyền Hình Ấn Hồng Khôi mệnh thân ").

14. TỬ PHỦ NHẬT KÌNH, CỰ THƯƠNG TRÍ XẢO

Tử, Phủ, Nhật là ba đế tinh mạnh mẽ, có bản lãnh biến Kình Dương (cùng cung) thành của mình, tức là tự mình trở thành trí xảo. Nếu mệnh cư ở Thìn Tuất Sửu Mùi tất Kình Dương nhập miếu, theo đuổi kinh doanh dễ thành tựu lớn.

Chú ý: Thái Âm cũng là đế tinh nhưng tương đối yếu, không vận dụng nổi Kình Dương nên chỉ có cách này khi đồng cư với Thái Dương ở Sửu Mùi.

15. TÀNG HUNG TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG KHÔNG VONG

Tử Phủ Vũ Tướng ứng với cộng hưởng giữa hai nhóm Tử Liêm Vũ và Phủ Tướng nên rất tốt đẹp, nhưng nếu gặp Không vong (Tuần Triệt hoặc Thiên Không Địa Không đúng vị đóng cùng cung) lại biến thành xấu, dù nhiều cách tốt khác hội họp đi nữa cũng gặp nhiều hung hiểm.

16. MÃO DẬU KIẾP KHÔNG TỬ THAM THOÁT TỤC

Ngược lại Tử Tham Mão Dậu là cách kém nhất của Tử Vi (hội họp với Tham Lang thay vì Phủ Tướng), ứng với sự sa đọa, dâm đãng, nếu gặp Địa Kiếp hoặc các sao Không vong cùng cung lại là vô vi thoát tục.

17. LIÊM TRINH VÔ LỰC NGỘ HỔ NGUY NAN

Liêm Trinh ứng với quái Li rực rỡ quá độ nên tốt thì chủ công danh, xấu biến thành tai họa. Liêm Trinh cùng cung Phá Quân hoặc Tham Lang thì lạc hãm nên vô lực. Bạch Hổ tượng kẻ nhất định dùng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình. Vô lực mà đòi dùng lực tất bị nguy hiểm, tai ương. Nên Liêm Trinh hãm địa cùng cung với Bạch Hổ khó tránh tai nạn.

Liêm Trinh độc thủ Dần Thân được hội họp với Phủ Tướng nhưng lại bị Tham Lang (hãm) xung chiếu, đồng cung Bạch Hổ cũng nguy hiểm nhưng đỡ hơn Liêm Phá, Liêm Tham. Có sao tốt giải cứu thì không đáng lo ngại.

Chú ý: Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ". Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công.

18. LIÊM PHÁ LIÊM THAM KHÚC XƯƠNG ĐẠI HỌA

Liêm Trinh ứng với quái Li, ví như cô tiểu thư đài các, có Khúc Xương càng thêm vẻ kiêu sa. Nhưng cùng cung Phá Tham là lạc hãm, như cảnh thân gái dặm trường, vẻ đài các kiêu sa càng khiến kẻ bất lương dòm ngó, biến thành tai họa.

19. MỆNH LÂM HIỂM TỌA ĐÀ VŨ XƯƠNG LINH

Vũ Khúc ở cung dương (hoặc gặp Tham Lang ở Sửu Mùi ) Văn Xương tương đối đẹp, nhưng vì cả hai sao cùng thuộc Kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm. Đà Linh là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà thuộc Kim, Linh thuộc Hỏa nhưng có mang thêm tính Kim. Cái đẹp mong manh gặp tính sát âm hàn đã xấu, cả bốn sao lại đều mang tính sát của Kim nên trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn to lớn.

Ở cung âm Vũ Phá, Vũ Tham, Vũ Sát vốn đã không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa.

(Phú để lại có câu "Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà" nghĩa là đến hạn Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là quá nhiều khó khăn không thể nào giải quyết nổi, chỉ còn cách là tự tử cho xong).

20. VŨ PHỦ KIẾP KÌNH ÁC NHÂN QUÝ HIỂN

Vũ Phủ Tí Ngọ là một cộng hưởng vô cùng tốt đẹp vì cả hai sao đều là tài tinh, Phủ lại là đế tinh nên có uy lực mạnh mẽ. Kiếp Kình là hai sát tinh ác độc, Phủ bản chất dung hòa nên đều thu dụng làm của mình, trở thành cách độc ác nhưng quý hiển. (Có cách này độc ác thì khá giả, hợp cách gian thương tạo ra tài sản trên máu mủ thiên hạ. Ngược lại quyết giữ thiện tâm thì như người tốt đồng hành với bọn bất lương, tất phải chịu một số oan nghiệt rồi mới tốt đẹp).

Vũ không được Phủ cùng cung thì uy lực kém hơn. Đồng cách Kiếp Kình, thêm nhiều sao tốt hội họp cũng ác độc nhưng khó thành công, thêm nhiều sao xấu hội họp tất vì tiền bạc mà mang họa vào thân.

21. DẬU CUNG BẤT MIỄN THIÊN TƯỚNG ĐA ĐOAN

Thiên Tướng là quý tinh nên cư mệnh không phải lo cơm áo, nhưng bản chất nhu nhược nên không vượt nổi tính "bại" của cung Dậu. Tướng kém cỏi nhất ở Dậu (kém hơn Mão vì hai đế tinh Âm Dương cư ở Tử Tức và Huynh Đệ đều hãm địa), lại bị Liêm Tham Phá hãm địa ở Mão xung chiếu, nên gặp rất nhiều phiền toái rắc rối. Mệnh cung của nhiều cô gái giang hồ nhan sắc được khách làng chơi chu cấp như vợ bé có cách này.

22. PHẢN HỮU HỒNG LOAN SẮC KHÔNG GIÁC NGỘ

Cũng là Thiên Tướng cư Dậu, tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch, Đào Hỉ ở Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng như không, ngộ ra mọi sắc hương đều là giả dối.

Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận tương tự nhưng xác suất thấp hơn.

Luật chung về Thiên Tướng cho tất cả mọi cung: Thiên Tướng ứng với hình thức bề ngoài, nếu hội họp với cả hai loại sao sắc (Đào Hồng Hỉ) và Không (Tuần Triệt Thiên Không Địa Không ) lại biến thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với cảnh tu hành ).

23. QUÝ TINH TƯỚNG PHỦ TUẦN TRIỆT LAO ĐAO

Phủ Tướng là hai quý tinh có tính dung hòa nên nói chung khi độc thủ không ngại tứ sát Kình Đà Hỏa Linh lắm. Cư mệnh vẫn dễ phú quý, chỉ tăng thêm tính gian xảo. Thế nhưng là thế "có" nên gặp Tuần Triệt coi như mất hết. Cách tốt bao nhiêu cũng thành vô dụng. Gặp Thiên Không, Địa Không đúng vị không vong cũng luận như trên.

Chú ý: Cách này ứng với khi Phủ Tướng ở cung âm. Ở cung dương là cách 15 đã kể trên.

24. HÌNH TƯỚNG, PHỦ HAO ĐỒNG VI PHÁ CÁCH

Thiên Tướng là sao yếu đuối nên có Tả Hữu phù tá thì rất tốt đẹp, ngược lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình cùng cung thì hết sức nguy hiểm. Thiên Hình là sát tinh nên Thiên Tướng khó thoát khỏi tai họa. Thiên Phủ cũng cần Tả Hữu và kỵ Thiên Hình, nhưng vì là đế tinh có uy lực mạnh nên gặp Thiên Hình không đáng lo ngại. Nhưng Phủ là tài tinh, cùng cung Đại Tiểu Hao là phá cách, ứng với sự túng thiếu. Đại Tiểu Hao đắc địa đi nữa cũng chỉ có những thoáng huy hoàng mà thôi.

25. PHÁ HIỀM XƯƠNG KHÚC, PHẢN HỢP KIẾP KHÔNG

Phá Quân bản chất phá hoại, Xương Khúc lại nho nhã dung hòa, nên Phá Quân có Xương Khúc phò tá không thể làm ra chuyện (trừ trường hợp có thêm sao của cả hai nhóm Tả Hữu, Khôi Việt hội họp). Phú có câu "Phá Quân Xương Khúc vi bần nho". Ngược lại Phá gặp Kiếp Không là hai sao chuyên phá hoại thì đúng là chủ gặp tớ, dễ thành đại sự.

26. HAO PHÁ BẦN CÙNG, LỘC QUÂN ĐẠI PHÁT

Đại Tiểu Hao là hai sao thiếu chí hướng, khiến Phá Quân không thể chuyên nhất phát huy ưu điểm xung phá của mình. Đại Tiểu Hao bản chất lại là phí phạm, hư hao; dễ đẩy Phá Quân vào cảnh bần cùng. Ngược lại Phá Quân gặp Lộc Tồn (cẩn trọng nhưng khá giả) hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may mắn ) tất đại phát.

Chú ý: Lộc và Không Kiếp cùng phù hợp Phá Quân nên gặp Phá Quân thay vì phá hoại nhau lại cùng giúp Phá Quân trở thành tốt đẹp.

27. THANH LIÊM HÌNH SÁT, HIỂN ĐẠT SÁT KÌNH

Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt đẹp. Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp với đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình; do đó gặp Thiên Hình không bất lợi, chỉ thể hiện một chiều hướng khác. Thất Sát miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm thì tàn nhẫn.

Sao Sát phù hợp nhất với tính dũng cảm của Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương của cặp Kình Đà, Thất Sát gặp Kình Dương như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần một trong hai sao đắc vị là có thể thành công to lớn. Nhưng đây là một kết hợp đầy sát khí nên rất nguy hiểm, bạo phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một trong hai sao hãm địa thì rất khó lòng thoát khỏi tai họa. (Hai sao cùng hãm thành cảnh "kẻ dùng gươm chết vì gươm", chính là đại họa).

Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình Dương, nhưng mức thành đạt và xác suất thành đạt thấp hơn, vì Đà La là sao âm phát triển không nhanh bằng Kình Dương là sao dương.

28. NẠN ĐÁO TRÙNG TRÙNG SÁT DƯƠNG NGỌ VỊ

Kình Dương cư Ngọ là cách "Mã đầu đới kiếm". Ngọ thuộc Hỏa, Kình thuộc Kim, Hỏa khắc Kim nên đây là vị hãm địa xấu nhất của Kình Dương. Thất Sát ở Ngọ miếu địa cùng cung với Kình tất có thành tựu, nhưng khó lòng tránh khỏi tai họa khủng khiếp; hợp với số kẻ làm tướng chết oanh liệt ở trận tiền.

Phá Quân cư Ngọ (miếu địa) đồng cung Kình Dương cũng luận tương tự.

29. ĐÀO HOA CHÍNH THỊ TUẦN TỰ THAM LIÊM

Tham Lang ứng với quái Tốn, tượng là con gái trưởng, nhu nhược thành thử dễ bị cuốn hút vào chuyện trăng hoa, nên gọi là "chính đào hoa". Liêm Trinh ứng với quái Li, tượng là con gái thứ, xinh đẹp kiêu sa. Nhan sắc là lợi điểm mà cũng có thể là tai họa, nên gọi là "thứ đào hoa".

30. ĐA SÁT, BẠI, DÂM PHÁT SINH ĐẠI HỌA

Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn hút người ta vào đường phá hoại. Bại tinh gây ra bất hạnh. Dâm tinh, tức các cách đào hoa thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã. Tham Liêm bản chất đã mang sẵn tính đào hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất nguy hiểm, cần đề phòng tai họa hoặc trụy lạc.

31. THAM LINH THÀNH TỰU, THAM HỔ TAI ƯƠNG

Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ cùng cung khó lòng tránh khỏi tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái. Lý tương tự như trường hợp Liêm Trinh.

Chú ý: Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ". Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công.

Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp. Lục sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp. Ta đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh.

Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải là đột phát.

32. THAM HỎA ANH HÙNG, THAM XƯƠNG NHIỄU SỰ

Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn lửa lớn khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng, nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng với sự thành công đột phát.

Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham. Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái. Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối cho đời. Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu "Tham Lang Xương Khúc chính sự phiền hà".

Chú ý: Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa, hoặc sao phù tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa.

33. ÂM DƯƠNG VẠN SỰ XƯƠNG KHÚC KIẾP KHÔNG

Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh Âm Dương cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc và Không Kiếp. Âm Dương hội họp với Xương Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm năng, với Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì nhiều tai họa.

34. HỈ NGỘ TAM MINH, Ố HIỀM TAM ÁM

Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ. Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực. Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo đây.

35. SỬU MÙI ẢM ĐẠM NHẬT NGUYỆT VÔ QUANG

Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng, nói chung là phá cách. Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi chuột.

36. GIA KỴ TRIỆT TUẦN PHẢN VI ĐẠI CÁT

Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng tương tự.

Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ.

Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.

37. ÂM DƯƠNG HÃM ĐẮC KỲ CÁCH VINH XƯƠNG

Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí dương thịnh lại là cung dương), Thái Dương cực xấu ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm), nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ. Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu hết sức to lớn.

38. NHẬT PHÁT VĂN CHƯƠNG, NGUYỆT THĂNG VŨ CHỨC

Thái Dương vốn thuộc dương khi lạc hãm đắc kỳ cách theo luật "cùng tắc biến" lại nhuốm tính âm nên dễ phát về văn chương. Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính dương nên dễ phát về võ nghiệp.

Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá. (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc Xương phù tá).

39. NHẬT LƯƠNG XƯƠNG LỘC QUYỀN LỰC HẠCH TÂM

Thiên Lương thuộc quái Khôn (âm) lại vĩnh viễn tam hợp với Thái Âm (âm), được hội họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm dương quân bình nên rất đẹp đẽ. Nhật vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng cung, được Nguyệt miếu ở Hợi tam hợp, nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng của Thái Dương là Văn Xương và sao đại biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là lý tưởng. Nhật Nguyệt là hai đế tinh, thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung mệnh được cách này dễ trở thành nhân vật có quyền lực. Nhật ở Dậu hãm địa nên thành tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt đẹp. Đặc biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả Nhật Lương cư Mão.

Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai sao Nhật Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế vị nên kém hơn Nhật Lương Mão Dậu, ứng với quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh đắc phụ tinh tốt đẹp có thể là nhân sĩ địa phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử có Thiên Lương cư Tý).

40. TỴ HỢI TÀ DÂM ĐỒNG LƯƠNG LỘC MÃ

Lương gốc là quái Khôn tượng mẹ, Đồng gốc quái Đoài tượng con gái út. Đồng Lương ở Tỵ Hợi thì Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi là cảnh Nhật Nguyệt tranh huy u ám. Thiên Lương mất ánh sáng của Nguyệt, lại không được Nhật soi sáng trở thành u tối, như người mẹ quên mất thiên chức của mình. Tỵ Hợi lại thuộc tứ mã tượng biến động nên Thiên Lương ở đây hãm địa, ứng với sự buông thả, phóng túng. Đồng như cô con gái ham chơi được mẹ thả lỏng, nên là cách "vượng địa" bay nhảy tự do không còn gì kềm hãm nữa.

Hóa Lộc và Thiên Mã (Lộc Mã, nhưng xem chú ý 1) là một cách rất tốt, biểu tượng thay đổi may mắn, nhưng chính vì vậy khuynh hướng phóng túng của Thiên Lương càng có cơ hội bộc phát. Thiên Đồng non dại thiếu sự dạy bảo của người trên thấy đổi thay may mắn thế nào chẳng ham vui nhảy vào, thiếu kinh nghiệm tất bị sa ngã. Bởi vậy Đồng Lương Tỵ Hợi gặp Lộc Mã thay vì tốt đẹp lại tà dâm, bất chính.

Nếu không gặp Lộc Mã nhưng có các cách đào hoa hội họp cũng luận như trên.

Chú ý 1: Lộc Tồn và Thiên Mã (cũng gọi là Lộc Mã) không thể luận như Hóa Lộc và Thiên Mã vì Lộc Tồn có tính bảo thủ, giảm tính vọng động của Đồng Lương Tỵ Hợi.

Chú ý 2: Tham Liêm Tỵ Hợi gặp hóa Lộc Thiên Mã tương tự, nhưng lý hiển nhiên hơn vì là hai sao chính phụ đào hoa.

41. CỰ MÔN ÁM CHỦ TỐI HỈ NHẬT MINH

Cự Môn là đầu đảng của các sao ám, tượng sự bất mãn thị phi nên rất cần Thái Dương soi sáng, do đó Cự Nhật đồng cung là một cách tốt đẹp. Nhưng cần chú ý ở Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn ở Thân. Cung Mệnh cư ở Thân có Cự Nhật là hạng người đầu voi đuôi chuột, thích đảm đương trọng trách nhưng hay bỏ việc giữa đường.

Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ. Ngược lại nếu cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với hai hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan; dù đắc cách Cự Nhật cũng thế.

42. CỰ NGỘ SÁT TINH NHẤT SINH TỌA NẠN

Trong các sao tĩnh thì Cự Môn - vì bản chất đã hàm tính xấu - sợ lục sát tinh hơn cả, gặp một trong lục sát cùng cung là phá cách. Nếu cư mệnh:

Cùng Kình hoặc Đà: Lắm thị phi.

Cùng Hỏa hoặc Linh: Lắm tai nạn

Cùng Không hoặc Kiếp: Thành ít bại nhiều.

43. THIÊN ĐỒNG DẬU HÃM CÁT HÓA VINH QUANG

Thiên Đồng cực hãm ở Dậu (vì cung xung chiếu có Thái Âm hãm địa), nên theo lý cùng tắc biến nếu cát hóa lại biến thành kỳ cách, có thể tạo nên sự nghiệp huy hoàng.

Tuổi Bính Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Lộc, được Thiên Cơ ở Sửu (hãm) hoá Quyền tam hợp, thêm Thiên Việt cùng cung, Lộc Tồn ở Tỵ hội họp. Hết sức tốt đẹp.

Tuổi Đinh Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Quyền, được Thái Âm ở Mão (hãm) hoá Lộc xung chiếu, Thiên Cơ hóa Khoa ở Sửu (hãm) và Cự môn hóa Kỵ ở Tỵ (hãm) chiếu về, thêm Thiên Việt cùng cung. Chính cung hóa Quyền nên đắc cách Quyền Kỵ và gồm thâu cả tứ hóa. Tốt đẹp e còn hơn cả tuổi Bình.

44. ĐỒNG CỰ ĐINH TÂN VÕNG LA ĐẠI QUÝ

Thìn là vị Thiên La, Tuất là vị địa võng. Cự ở Thìn xung Đồng ở Tuất đều là lạc hãm rất xấu, nhưng chính vì thế mà hoá cát lại thành cực tốt.

Tuổi Đinh Thiên Đồng cư Tuất hóa Quyền, Cự Môn hóa Kỵ thành cách Quyền Kỵ, có khả năng tạo dựng sự nghiệp trong cảnh khó khăn. Ngoài ra lại có Thái Âm hóa Lộc ở Dần (hãm), Lộc Tồn ở Ngọ chiếu về, ứng với tài lộc, may mắn. Thiên Đồng cư Thìn cũng rất tốt, nhưng không bằng Tuất vì thiếu Lộc Tồn tam hợp, và Thái Âm ở Thân (vượng) hóa Lộc không tốt bằng ở Dần (hãm).

Tuổi Tân Cự Môn cư Thìn (hãm) hóa Lộc, có Thái Dương ở Tý (hãm) hoá Quyền nên là kỳ cách tốt đẹp. Cự Môn cư Tuất cũng tốt đẹp, nhưng kém hơn ở Thìn vì Thái Dương ở Ngọ (miếu) hóa Quyền không bằng Thái Dương ở Tý (hãm).

Chú ý 1: Tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc, Thiên Cơ hóa Quyền nên Thiên Đồng ở Thìn Tuất cũng tốt nhưng không bằng tuổi Đinh vì hai lẽ: Thứ nhất Thiên Cơ uy lực kém hơn Thái Âm, thứ hai bị Lộc Tồn ở vị nghịch lẽ âm dương.

Chú ý 2: Tuổi Quý Cự Môn ở Thìn (hãm) hóa Quyền được thêm Lộc Tồn ở Tý chiếu về nên cũng tốt đẹp, nhưng vẫn không bằng tuổi Tân có Thái Dương hãm cát hóa. Cự Môn ở Tuất thì kém hẳn.

45. DẦN THÂN RIÊU HỈ CƠ NGUYỆT LĂNG LOÀN

Nguyệt cực âm nên dù là đế tinh vẫn yếu đuối, Cơ bề ngoài bảo thủ nhưng trong tâm tư biến đổi liền liền, Dần Thân lại là mã địa tượng xung động. Hai sao đồng cung ở đây không vững vàng, lại gặp Riêu (quyến rũ) Hỉ (vui tươi) thành cách đào hoa thì sao khỏi sa ngã. Nên đây là cách dâm đãng. Gặp các cách đào hoa khác cũng luận tương tự.

Nhưng chú ý: Nếu Cơ Nguyệt Dần Thân có thêm Không vong trấn giữ (Tuần Triệt hoặc Thiên Không cùng cung) thì ứng với luật "cùng tắc biến" của dịch, sắc lại biến thành không; nên càng có nhiều cách đào hoa càng có khuynh hướng tìm giải thoát trong cảnh tu hành.

46. THÌN TUẤT KHÔNG VONG CƠ LƯƠNG TĂNG ĐẠO

Cơ Lương Thìn Tuất là miếu vượng rất tốt đẹp; cư mệnh là cách của bậc quân sư tài giỏi, gặp sát tinh cùng cung xâm phạm phải xuống cấp vẫn còn là hạng "nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Nhưng Cơ Lương là hai sao nhu nhược, nên bị một trong các sao không vong cùng cung trấn áp (gồm có Tuần Triệt, Địa Không ở vị trí này ) tất chẳng còn gì cả, như người có của báu một lúc trắng tay, lại thiếu bản lãnh quật cường nên sinh thất chí, cư mệnh là cách của người chán đời đi tu.

47. CỰ CƠ MÃO DẬU BẤT ĐÁO NHÂN DUYÊN

Cự Cơ Mão Dậu là một kỳ cách của Tử Vi, nếu gặp Tuần Triệt hoặc Đại Tiểu Hao để thành tựu lớn. Nhưng đây là kỳ cách do nhiều yếu tố xấu phá hoại nhau mà thành nên theo luật bù trừ được cái này mất cái kia.

Cự Cơ Mão Dậu cư Mệnh thì Phu thê ắt là Âm Dương Sửu Mùi như mặt trăng mặt trời tranh dành ánh sáng, là cảnh âm dương bất thuận; do đó là số tình duyên ngang trái.

48. CƠ NHẬT ĐỒNG LIÊN NỮ NHÂN BẤT TÚC

Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng. Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở.

Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền. Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp.

Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên. Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão.

Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế.

49. CÁCH TUY HỌA PHÚC CHỦ YẾU THIỆN TÂM

50. KHẢ DĨ AN NHIÊN ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ.

Số mệnh vốn là xác suất nên họa phúc đều có thể đổi thay. Nếu phát thiện tâm thì có thể lấy đức thắng số mà được vạn sự an lành.

TỬ VÂN TIÊN SINH LUẬN TÍNH CHẤT TINH DIỆU

Mọi người đều biết, muốn học tốt đẩu số mệnh lý, trước tiên phải hiểu tác dụng Thiên Phú của tinh diệu, bằng không đối với đẩu số mệnh lý sẽ chẳng thể tiến bộ, thì không thể nhập môn được. Do vậy trên phố xuất bản sách đẩu số mệnh lý lấy việc đàm luận tác dụng thiên tính của tinh diệu làm chính. Đáng tiếc là không một quyển sách nào có thể giải thích một cách hoàn hảo thiên tính của các tinh diệu đẩu số. Cũng cần cảm thông cho vấn đề này và cũng không hi vọng có thể đem thiên tính của một tinh đẩu ra để nói một cách hoàn chỉnh. Thấu hiểu được nỗi lòng của những hậu học Tử Vi mệnh lý khi gặp rất nhiều khó khăn tìm đường nhập môn. Người viết cho rằng thiên tính tinh diệu của Tử Vi đẩu số có thể tạm chia thành các phần dưới đây để tiến hành nói rõ:

Thứ nhất: Sao chia làm Nam Bắc Đẩu

Đẩu số tinh diệu trong đó đặc biệt là 14 chính tinh phân chia làm nam bắc đẩu. Dựa vào cương nhu mà nói Bắc Đẩu chủ cương Nam Đẩu chủ nhu. Dựa vào phương diện trước sau thì Bắc Đẩu chủ trước Nam Đẩu chủ sau. Chủ trước hay chủ sau, giống phán đoán suy luận như trên 1 việc trong đại vận có thể phát sinh ở năm năm trước hoặc năm năm sau, ở một năm thì là nửa năm trước hoặc nửa năm sau. Mặt khác nếu là một chuyện nào đó khi tiến hành thì có thể là trước khó sau dễ hoặc trước dễ sau khó. Tương tự trước sau phân biệt, quan hệ đến cung vị trọng điểm mà tinh diệu Nam Bắc đẩu tinh phân chia thường hay căn cứ để suy luận: Như Tử Vi là chủ Bắc đẩu tinh, khi tọa tại cung mệnh người như thế cá tính kiên cường, có chủ kiến. Thiên Phủ chủ Nam Đẩu tinh nếu tọa cung mệnh người như thế cũng có chủ kiến nhưng cá tính tương đối ôn hòa. Như dựa vào tốc độ cát hung mà nói, lúc Tử Vi tọa tại cung vị trọng điểm nó hiện ra cát hung tương đối nhanh. Đó là lý do tại sao khi Bắc Đẩu Tinh làm chủ tinh thì cát hung sẽ thường diễn ra vào nửa đầu của vận. Còn nếu cung trọng điểm Thiên Phủ tọa thủ thì cát hung sẽ diễn ra chậm chạp và thường sẽ ứng vào nửa sau của vận.

Thứ 2: Sao chia thuộc tính làm Âm và Dương

Dương chủ rõ ràng và Dương cương, Âm chủ âm u và Âm nhu. Liền có thể phán đoán tính cách của mệnh tạo hiện tại. Mệnh thân cung dựa vào âm dương khác biệt của tinh diệu tọa thủ mà có thể dùng để phán đoán suy luận, nên cá tính của mệnh tạo sẽ là hướng nội hay hướng ngoại, tính cách lại liên quan tới hành vi cá nhân. Vì vậy, khi bàn về mệnh cách riêng hiện tại, phân tích tính cách cần căn cứ vào Mệnh cung tọa thủ tinh diệu là Âm hay Dương để tiến hành đoán định.

Ví dụ: Thiên Cơ thuần Âm, Tham Lang thuần Dương giả sử tọa tại vượng cung cũng biết là chủ về tốt, 2 loại mệnh tạo này đều là thông minh tài trí. Nhưng bởi Thiên Cơ thuần âm nên loại người này thuộc loại thông minh tài trí nhưng sống nội tâm. Như vậy, Thiên Cơ tọa thủ cung mệnh vượng là người thông minh và sống nội tâm. Tham lang tọa Mệnh chủ là người vừa thấy đã biết ngay người thông minh sắc bén và hướng ngoại. Dựa vào đẩu số mênh lý mà nói do khác biệt về trí tuệ, tính cách phẩm chất riêng sinh ra hành vi cũng sẽ có sự khác biệt rõ ràng.

Thứ 3: Tính chất của sao Ngũ hành

Ngũ hành tức là Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Ngũ hành là do lão tổ tông dùng phương pháp quan sát vạn vật trên đời mà phân chia tính chất cho mỗi loại. Vì vậy ngũ hành định tính chất của mọi chuyện mọi vật, cũng chính là dựa theo sự phát triển của mọi sự vật hiện tượng mà phân loại ra. Lấy ngũ hành thuộc Mộc mà nói như cây cối chỉ hướng về phía trước, hướng ra ngoài mở rộng vươn lên, cành nhánh vốn có tính mềm mại vì vậy gặp gió thì giao động, tức là ngũ hành thuộc Mộc vốn có tính chất chung là biến động, mở rộng. Gắn vào tinh diệu mà nói Tham Lang cùng Thiên Cơ ngũ hành đều là Mộc (Chú ý Tham Lang theo đẩu số toàn thư tập 2 trang 205 theo âm dương ngũ hành là dương mộc), mệnh người tọa thủ Tham Lang hoặc Thiên Cơ vượng địa chủ đặc tính mở rộng vươn lên linh động biến hóa vì vậy mệnh tạo trong các trường hợp cụ thể sẽ rất linh động biến hóa thông minh tài trí.

Mặt khác Tham Lang thuần dương mộc, dương chủ bề ngoài, là biểu hiện của nữ giới. Cho nên mệnh có Tham Lang tọa thủ có tác phong làm việc kiên quyết nhanh chóng. Thiên Cơ thuộc âm mộc thuộc nội tâm nên khi gặp chuyện thường trăm lo ngàn nghĩ để giải quyết công việc. Do vậy Tham Lang đi cùng Thiên Cơ tuy là cùng Mộc tính nhưng do âm dương khác biệt mà Tham Lang thuộc loại hành động bên ngoài còn Thiên Cơ thuộc loại trí tuệ bên trong. Đây chính là Tham Lang chủ là nguyên nhân bên ngoài còn Thiên Cơ chủ là nguyên nhân bên trong. Dựa vào 14 chính tinh mà nói chẳng những phân chia Nam Bắc Đẩu tinh khác nhau ngay cả mỗi người chúng ta cũng đều phân âm dương ngũ hành khác biệt. Cho nên đối với các tính chất Thiên Phủ của tinh diệu nếu không lý giải thêm vào thì khi đem sử dụng sẽ như ếch ngồi đáy giếng và sẽ mắc phải sai lầm vì vơ đũa cả nắm.

Thứ 4: Ngũ hành sinh khắc cùng chế hóa

Hai sao tương sinh tức là cùng hỗ trợ nhau làm cho cả 2 tinh diệu đều biểu hiện ra mặt tích cực. Tương khắc tức là bài xích lẫn nhau, sử dụng 2 sao đều sẽ biểu hiện mặt tiêu cực. Như Liêm Trinh ngũ hành thuộc hỏa, Phá Quân ngũ hành thuộc thủy, nếu Phá Quân và Liêm Trinh cùng tọa thủ cung mệnh hoặc phân chia ở mệnh và ở thân cung. Nếu gặp năm Bính khiến Liêm Trinh Hóa Kỵ gặp Phá Quân thành "Thủy hỏa tương khắc" sẽ sinh ra biểu hiện xấu. Nhưng nếu năm Giáp Liêm Trinh Hóa Lộc sẽ sử dụng Liêm Trinh cùng Phá Quân "Thủy Hỏa tương hỗ". Sử dụng cách này tính chất chính tốt của 2 sao sẽ được phát huy tác dụng.

Thứ 5: Miếu Vượng Lợi Hãm

Tinh diệu tọa thủ tại 12 địa chi cung vị trên mệnh bàn, bởi vì tọa thủ ở cung vị khác nhau mà có mạnh yếu khác biệt. Lúc tọa thủ cung vị Miếu Vượng tinh diệu mới có thể phát huy được tác dụng chính của nó. Nếu tọa thủ tại cung vị Hãm Nhược thì tác dụng chính của tinh diệu không được phát huy mà nghiêm trọng hơn những tác dụng thể hiện ra đa số đều là tác dụng xấu. Như Thái Âm làm chủ cung Điền trạch, Thái Âm chủ về tiền bạc nếu ở vượng cung thì cũng chủ nhiều cát lành. Chủ về lợi cho điền trạch và lợi về tiền bạc, nếu Thái Âm tọa thủ tại Điền Trạch nhưng Hãm Nhược thì bất lợi về điền trạch và cũng bất lợi về tụ tiền bạc. Mười bốn chính tinh đều bị ảnh hưởng bởi Miếu Vượng Lợi Hãm, thường bởi vì tọa thủ khác địa chi và cung vị mà thể hiện ra mạnh yếu khác biệt. Thậm chí cát hung lẫn lộn khác biệt với tính chất Thiên Phủ của tinh diệu. Vì vậy cần phải hiểu và không được coi thường tính chất của tinh diệu Thiên Phủ khi tọa tại các cung vị Miếu Vượng Lợi Hãm.

Thứ 6: Tính chất gốc của Tinh Diệu

Mười bốn chính tinh có tính chất đặc biệt ngoài đặc tính gốc, do vậy khi biểu hiện ở mệnh lý cũng liền biểu hiện tính chất đặc biệt đó. Như Thiên Phủ chủ về kho tiền, cũng là lệnh tinh, lệnh tinh tức lên tiếng ra lệnh là tính chất đặc biệt, ở thời hiện đại về phương diện quản lý kinh doanh mà nói người có Thiên Phủ tọa mệnh là người mưu cầu tiền tài và bất động sản, am hiểu về quản lý kinh doanh. Nếu tính chất lệnh tinh của nó được hội hợp với các sao cát tinh khác sẽ phát huy được tác dụng làm phát triển sự nghiệp kinh doanh. Giống như tính chất vốn có của Thái Âm là Điền trạch và Tài Bạch, bởi vì Thái Âm là "Điền trạch chủ" nếu mệnh tọa thủ Thái Âm vượng hội với cát tinh do Thái Âm chủ tài và điền vì vậy khi mệnh cách có tiền thường hay suy tính có nên đầu tư vào mua bất động sản hay không. Nói thêm Điền Trạch là vị trí của kho tiền, nếu kho tiền vượng thì tài có thể tụ nhờ đó mà được phú quý. Thái Âm Vượng tọa thủ mệnh thân cung hoặc điền trạch đều luận là phú quý. Vũ Khúc được coi là "Chủ Tiền Tài" ở vượng địa hội cát tinh sở trường là tài quản lý vì vậy mệnh phú quý đa số am hiểu quản lý tài sản và coi trọng con đường phát triển tài lộc mà được giàu có. Cho nên Vũ Khúc vượng địa hội cát tinh ngoại trừ việc thủ mệnh thân vì được đắc viên ngoại còn lại ở cung Tài Bạch và Phúc Đức đều lấy việc chủ lợi cho cầu tài và quản lý tài sản mà luận.

Thứ 7: Cách cục cùng tượng cát hung

Đẩu số tinh diệu tuy là có các tác dụng thiên tính khác biệt, tuy nhiên 2 tinh đẩu ở trên cùng tam phương tứ chính cung hội hợp thì hình thành nên 1 loại tổ hợp riêng biệt, thường thường khi đó sẽ sinh ra một loại tính chất thiên tính tổng hợp (khác tính chất của mỗi tinh diệu đơn lẻ) thông qua 2 tinh diệu trên. Thông thường tinh diệu kỵ sát giao hội thì lấy hung tướng mà luận. Nếu như cát tinh được hội cát Hóa Quyền tinh, lộc tinh hoặc kHỏa Tinh, xuất hiện tính chất Thiên Phủ dĩ nhiên lấy tượng cát để mà luận. Ví dụ Vũ Khúc vốn là tài tinh, Vũ Khúc Hóa Kỵ mà tam phương tứ chính có một trong 6 sát tinh xông tới hội họp liền thành hung tướng bất lợi cho cầu tài. Nhưng nếu Vũ Khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền trong tam phương tứ chính có 1 trong 6 cát tinh hội họp liền biến thành tượng cát có lợi cho cầu tài. Vì vậy mà Vũ Khúc Thất Sát hội Kình Dương thành cách "Nhân tài trì đao" (tức là bởi vì tiến cầm đao ám chỉ người gian ác giết người không gớm tay) là hung cách. Gặp tinh diệu hình thành loại tổ hợp này thì tiền bạc danh lợi đều bị phá hết, rất khó hóa giải đại hung cho nên gọi là hung cách. Nếu Vũ Khúc được lộc mã cùng song hành thì lại thành cách Phát tài viễn xứ, loại này mệnh người nếu xa quê hương tất sẽ được như ý lại có tiền tài vượng, hạn gặp cách này cũng có thể suy đoán như vậy.

Mười bốn chính tinh tác dụng khá mạnh cùng 6 cát tinh hoặc 6 hung tinh, thường hình thành những tượng cát tượng hung cùng tình trạng cát cách hung cách, những thứ này thông qua tinh diệu mà hình thành tổ hợp đặc thù, đẩu số mệnh lý khi luận giải căn cứ vào đó mà luận thành cát cách và hung cách. Ngoài tác dụng lớn chỉ tượng cát hung, đây cũng là căn cứ để đẩu số mệnh lý phán đoán suy luận phân chia tượng cát hung hỗn tạp chuyển thành cát hoặc chuyển thành hung.

Thứ 8: Sáu cát tinh

Tả phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc vị chi là 6 cát tinh. Thông thường đều cho rằng 6 cát tinh này là 6 sao quý nhân. Có lợi cho các cách cục ở mệnh thân phát huy được tác dụng chính mà không bị ảnh hưởng bởi tác dụng phụ xấu. Kỳ thực 6 cát tinh hiển thị ra tính chất tốt lành nhất định cần cách cục của thân mệnh phải Cường hoặc đồng cung với chính tinh Cường Vượng lúc đó sao quý nhân mới có tác dụng trợ giúp. Nếu gặp cách cục thân mệnh yếu hoặc đồng cung với sao chính tinh Hung thì 6 cát tinh chẳng những không có tác dụng tốt mà còn thể hiện những mặt xấu của nó. Điều này đẩu số mệnh lý truyền thống không chú ý tới. Đây cũng là sơ hở của một bộ phận người luận đẩu số mênh lý truyền thống.

Thứ 9: Sáu sát tinh

Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp thông thường chỉ cho rằng chúng mang tính chất hung tính, cho nên theo truyền thống gọi là hung tinh. Vậy 6 sát tinh nếu như gặp Mệnh Thân cung hoặc đồng cung với chính tinh Hãm Nhược, vì sát tinh nên hung tính là tính chất riêng đặc trưng khiến cho cách cục thân mênh hoặc chính tinh đồng cung xuất hiện tính chất tác dụng trái không có lợi, đây là nhận thức truyền thống đối với 6 sát tinh trên. Kỳ thực nếu 6 sát tinh trên gặp cách cục Mệnh Thân Cường Vượng hoặc đồng cung với chính tinh lúc Cường Vượng, 6 sát tinh sẽ "Chế sát làm dụng" mà thế hiện lên mặt chính của tác dụng Thiên Phủ. Người viết (ý là Tử Vân) từng đề cập đến trong các sáng tác: Đẩu số mệnh lý thực có quan niệm rằng: "Hữu bệnh phương vi quý, vô sát bất thành kỳ: tức là có bệnh mới là quý, không sát tinh không thể thành cách". Quan niệm này đã được nghiệm chứng trên rất nhiều mệnh bàn của những người công thành danh toại (mà có thế kiểm chứng được). Cho nên 6 sát tinh trên thực tế tác dụng Thiên Phủ cũng "không phải chỉ cát không hung". (theo tôi dịch thì có lẽ có chút sai lầm từ bản word tôi có chỗ này nên phải là: "không phải chỉ hung không cát")

Thứ 10: Sao Đào hoa cấp bính (hạng 3)

Cũng chính là Hồng Loan, Thiên Hỷ, Thiên Diêu, Hàm Trì những sao này cùng loại với Đào Hoa là sao Bính cấp. Truyền thống luận mệnh cho rằng những sao đào hoa này tọa hoặc gặp hội chiếu ở mệnh thân cung tác dụng chỉ hiện ra tình yêu nam nữ lãng mạn hoặc vượt quá giới hạn tình yêu. Những thứ này cần phải xem ở mênh thân cung hoặc ở cung phu thê tọa thủ chính tinh có liên quan tới tính chất đào hoa hay không, đồng thời mức độ lãng mạn hay vượt quá giới hạn khi hội hợp với các sát tinh cũng sẽ có những quan hệ mật thiết. Vì vậy những ngôi sao bính cấp (cấp 3) hay là những sao đào hoa này về phương diện tình cảm nam nữ mà nói không phải cứ tọa mệnh thân hay hội tại mệnh thân mà có tính chất về tình cảm nam nữ. Đào hoa ở trên tác dụng Thiên Phủ khác có liên quan đến "Mĩ cảm" (cảm nhận vê cái đẹp), thậm chí cùng người hành sự nếu có chút ảnh hưởng hội họp của các sao đào hoa thì đòi hỏi về sự hoàn mĩ cũng có sự khác biệt. Đáng tiếc thông thường mọi người chỉ cho rằng ảnh hưởng của các sao đào hoa chỉ giới hạn ở quan hệ tình yêu Nam Nữ hoặc Phong Hoa Tuyết Nguyệt.

Thứ 11: Các tinh diệu khác

Ví dụ như có thể hiện cát thì cũng có thể hiện hung là: Lộc Tồn, Thiên Mã, thuộc quan quý: Tam Thai, Bát Tọa, Thai Phụ, thuộc cô khắc: Cô thần, Quả tú, Thiên Hư, Thiên Khốc, Bạch Hổ, Tang Môn, các loại sao Bính Đinh Cấp. Thông thường hay phạm sai lầm cho rằng các tinh diệu này nhỏ nên không có nhiều ảnh hưởng. Nhưng theo kinh nghiệm của tác giả nhiều năm trải qua những tinh diệu này so với 14 chính tinh mặc dù không có tác dụng “Khách át giọng chủ” nhưng cũng làm tăng thêm độ cát hung phần nào. Cái này tăng cường cát hung cũng làm căn cứ để phán đoán suy luận cát hung của mệnh lý.

Thứ 12: Thiên can tứ hóa cũng chính là Hóa Lộc Quyền Khoa Kỵ

Tác dụng của tứ hóa chính là làm ảnh hưởng trong một giai đoạn, hiện tượng tinh diệu nào đó sẽ lộ ra tính chất đặc biệt, sở dĩ có người nói tác dụng của tứ Hỏa Tinh là một trong những tinh hoa của đẩu số mệnh lý, cho nên không hiểu tác dụng tứ hóa sẽ không có cách nghiên cứu sâu đẩu số mệnh lý. Tiếc là liên quan tới Tứ hóa tác dụng ý nghĩa cùng ứng dụng lại bị bóp méo và tùy tiện phát triển. Bây giờ bất minh tứ hóa chân nghĩa và bóp méo tứ hóa tác dụng có thể nói từ xưa đã rồi, đến nay còn ác liệt hơn. Có một số trên phố xuất bản đẩu số luận chiêu (chiêu thức) có phủ định tác dụng của Lộc Tồn, có một số thì chỉ dùng Lộc và Kỵ mà không cần Quyền Và Khoa, một số mặc dù sử dụng Quyền và Khoa nhưng bóp méo làm hiểu sai tác dụng của hai Hóa tinh ứng dụng trong mệnh lý. Người viết đồng ý không hiểu tứ hóa tác dụng sẽ khó hiểu được đẩu số mệnh lý kiến giải nhưng đáng tiếc là tứ Hỏa Tinh nghĩa gốc và ứng dụng lại bị ngộ giải rất nhiều. Đối với một người mới học mà nói nếu không học được chính xác quan niệm và phương pháp vận dụng tứ Hỏa Tinh thì với đẩu số mệnh lý lý giải cũng chỉ đạt tới bề ngoài.

Người viết chủ trì chương trình học tọa đàm về tinh diệu thiên tính, trên đây nói ra vài mục loanh quanh phần cốt yếu nội dung học. Đối với cơ sở của nguyên lý đẩu số và phương pháp ứng dụng cũng sẽ ở trong chương trình học mà giảng giải kĩ càng, khiến cho người học đẩu số trong chương trình học có được đầy đủ nội dung hoàn chỉnh. Muốn thâm nhập tham khảo đẩu số mệnh lý thì tính chất tinh diệu thiên tính phân giải hoàn chỉnh là trụ cột quan trọng nhất để nhập môn công phu. do vạn trượng cao lầu do đất bằng phẳng khởi, đây là người viết hơn - ba mươi năm vùi đầu vào đấu sổ khắc sâu cảm thụ.

Vấn đề sao chủ cung

- Sao Phá Quân làm chủ 03 cung Phu thê, Tử tức, Nô bộc

- Cung Quan lộc thì có 05 sao: Tử vi - Thái Dương - Thiên tướng - Liêm Trinh - Thiên phủ

- Sao làm chủ cung Huynh đệ là Thiên Cơ

- Vũ Khúc làm chủ cung Tài Bạch

- Thiên Đồng làm chủ cung Phúc đức

- Thiên Phủ làm chủ cung Tài bạch - cung Điền trạch - cung Quan lộc

- Thái âm làm chủ cung Tài bạch - cung Điền trạch

- Tham lang làm chủ họa - phúc và dục vọng

- Cự môn làm chủ đúng - sai

- Thiên lương làm chủ cung Phụ mẫu - thọ - quý

- Thất sát làm chủ cho túc sát (âm khí)

CÔNG CỤ LẬP LÁ SỐ TỬ VI CỔ HỌC

Công cụ "Lập lá số Tử Vi" trên hệ thống Tử Vi Cổ Học giúp người nghiên cứu hai việc:

- Lấy ảnh Lá Số Tử Vi được an tự động chính xác, hỗ trợ việc nhìn lá số tử vi được trực quan hơn bao gồm: hiển thị đầy đủ Thiên bàn, Địa bàn, tam phương tứ chính, màu sắc ngũ hành sao, hãm địa hay đắc địa của tinh đẩu, ...

- Gợi ý luận giải Lá Số Tử Vi: đây là tính năng đặc biệt nhất, gợi ý lời luận giải theo các trường phái Tử vi như Nam phái, Bắc phái, Thiên lương, ... Việc luận giải bao gồm gợi ý luận giải cho 12 cung trên lá số, cung Thân, đại vận và vận năm hiện tại đầy đủ.

Công cụ này giúp ích cho người nghiên cứu Tử vi rất nhiều, vì nó tính toán rất chính xác, đúng sách vở, tài liệu và hạn chế được rất nhiều sai sót khi người dùng tự an bằng tay. Đặc biệt việc gợi ý dựa vào nhiều môn phái giúp người sử dụng tự học được rất nhiều kinh nghiệm từ các trường phái Tử vi khác nhau.

Những lưu ý khi sử dụng công cụ "Lập lá số Tử Vi Cổ Học":

- Mặc định sử dụng này dương lịch để lấy lá số, tuy nhiên bạn đọc có thể lấy bằng ngày âm lịch nếu click vào phần an sao bằng ngày âm lịch.

- Để thay đổi thời gian xem vận (năm hạn) bạn đọc cần chuyển sang tab "tùy biến" và nhập năm hạn cần xem.

- Công cụ hỗ trợ hai cách an sao phổ biến là theo "Phổ biến" (Tử Vi Việt Nam) và "Trung Châu Tam Hợp Phái". Các bạn có thể tick chọn phương pháp phù hợp với bản thân.

- Để an thêm sao lưu cho đại vận, lưu niên thì bạn đọc cần lưu ý chuyển sang tab "tùy biến" để tick chọn thêm tính năng.

- Để tùy biến màu sắc hiển thị trên lá số, thay đổi hiển thị lá số theo sở thích riêng của cá nhân, bạn đọc chuyển sang tab "tùy biến" sau đó tick chọn vào checkbox "Cá nhân hóa giao diện" để thay đổi.

Cảm ơn các bạn đã quan tâm và sử dụng công cụ của Nhóm Tử Vi Cổ Học. Nếu thấy công cụ hữu ích hãy vui lòng like hoặc share giúp nhóm, để nhiều người hơn biết tới công cụ này.

Xin cảm ơn các bạn!

Link nội dung: https://world-link.edu.vn/lap-la-so-tu-vi-a68128.html