Hà Nam là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, khí hậu nhiệt đới, gió mùa, cách thủ đô Hà Nội 50 km, có quốc lộ 1A và sắt Bắc Nam chạy qua, thuận tiện cho giao lưu thông thương. Hà Nam được tái lập năm 1997, có 6 đơn vị hành chính gồm 1 thị xã và 5 huyện.
Thành phố Phủ Lý là thủ phủ của tỉnh Hà Nam, nằm trên trục quốc lộ 1A, cách thủ đô Hà Nội 58km về phía Nam. Tạo độ địa lý ở trong khoảng 20o,30’ vĩ độ Bắc, 105o,52’ kinh độ Đông.
Theo Niên giám thống kê năm 2003 của Cục Thống kê tỉnh Hà Nam: Diện tích tự nhiên 34,2km2, trong đó nội thị là 6,782km2. Dân số trung bình 75.492 người, mật độ dân số 2.207 người/km2. Trong đó có 37.432 nam, 38.060 nữ; thành thị 41.251 người, nông thôn 34.241 người.
Trung tâm của thị xã nằm gọn trong chạc ngã ba sông: Sông Đáy và sông Châu gặp sông Nhuệ; có 3 huyện của Hà Nam bao quanh: phía Đông Bắc giáp huyện Duy Tiên, phía Đông và Nam giáp huyện Thanh Liêm, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Kim Bảng.
Thị xã có hai dạng địa hình đặc trưng của tỉnh Hà Nam: đồi núi ở phía Tây, đồng bằng ở phía Đông, trong vùng trũng thấp, độ cao trung bình từ 2 đến 5m, nên thường bị ngập úng vào mùa mưa.
Khu vực thị xã được phủ toàn bộ bởi trầm tích tuổi Đệ Tứ, có tuổi và nguồn gốc tạo thành khác nhau. Hướng dốc địa hình từ Tây sang Đông. Ba con sông Đáy, Nhuệ, Châu hợp lưu tại đây, các cửa xả nước chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn sông Đáy. Hệ thống sông tạo nên mạng giao thông đường thuỷ thuận tiện, vận chuyển hành khách và hàng hoá đi các vùng lân cận và sang các tỉnh khác.
Đường bộ có quốc lộ 1A chạy giữa thị xã từ Bắc xuống Nam, có đường 21 nối Hà Nam với tỉnh Hoà Bình và Nam Định; có nhiều tỉnh lộ đi xuống tất cả các xã của 5 huyện trong tỉnh. Có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua.
Phủ Lý nằm trong vùng khí hậu chung của đồng bằng Bắc Bộ, mang đặc trưng của vùng khí hậu gió mùa. Nhiệt độ trung bình hành năm 23,3oC, nóng nhất vào mùa hè trung bình 27,4oC, lạnh nhất vào mùa đông trung bình 19,2oC. Độ ẩm trung bình năm 84%, có năm thấp nhất 11%. Vận tốc gió trung bình 2m/s, cao nhất 36m/s. Lượng mưa trung bình năm 1989mm, lượng mưa ngày lớn nhất 333,1mm.
Về tài nguyên khoáng sản, Phủ Lý có nguồn khoáng sản phi kim rất lớn, đó là đá vôi, đá đolomit, nguyên liệu sắt, than bùn và đá mỹ nghệ. Khoáng sản phân bố tập trung ở dải phía Tây và phía Nam thị xã, tạo nên tiềm năng lớn cho sản xuất vật liệu xây dựng, chủ yếu là xi măng.
Thanh Liêm là huyện đồng chiêm trũng bán sơn địa nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hà Nam, trên toạ độ địa lý 20o,27’ độ vĩ Bắc, 105o,75’ độ kinh Đông. Phía Tây Bắc và Bắc giáp huyện Kim Bảng, thị xã Phủ Lý và huyện Duy Tiên; phía Đông giáp huyện Bình Lục; phía Nam giáp huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định và huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; phía Tây giáp huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.
Theo Niên giám thống kê năm 2003: Diện tích tự nhiên 175km2. Dân số trung bình 135.686 người, mật độ dân số trung bình 775 người/km2; trong đó nam 64.873 người, nữ 70.813 người; phân bố theo khu vực: thành thị 9.145 người, nông thôn 152.182 người
Đất đai chia làm hai vùng rõ rệt, phía Đông là miền đồng bằng ô trũng chiếm phần lớn. Giữa huyện có dãy núi đồi đất kéo dài hàng chục km. Phía Tây là dãy núi đá vôi 99 ngọn như bức tường thành làm ranh giới giữa Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam với huyện Lạc Thuỷ - tỉnh Ninh Bình. Sông Đáy chạy dọc huyện từ Bắc xuống Nam, sông Liêm Phong bao phía Tây huyện và nhiều nhánh sông nhỏ chi lưu của sông Đáy chạy quanh co giữa huyện, tạo thuận lợi cho sự phát triển giao thông đường thuỷ. Là huyện có tài nguyên khoáng sản phong phú, có các mỏ đá vôi: Kiện Khê (trữ lượng 2,2 triệu tấn), Đồng Ao (12,4 triệu tấn), Thanh Tân (5,3 triệu tấn) để sản xuất xi măng, vôi, đã xây dựng, rải đường, làm hoá chất. Ngoài ra còn có mỏ đất sét, các loại đá vân hồng tím nhạt, đá vân mây, đá da báo vv….
Thanh Liêm có quốc lộ 1A chạy dọc qua huyện từ Bắc xuống Nam dài 16,5km chính giữa huyện, là con đường huyết mạch quan trọng. Quốc lộ chạy song song với đường sắt Bắc - Nam chéo ngang phía Đông Bắc huyện dài 5 km nối liền Phủ Lý với Nam Định. Địa thế này tạo cho Thanh Liêm trở thành một vị trí chiến lược.
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, Thanh Liêm có chung khí hậu nhiệt, đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm 23oC. Lượng mưa trung bình năm từ 1800 đến 2000mm, tập trung 70% vào mùa hạ, từ tháng 10. Lũ sông Đáy nhiều năm dâng cao làm sạt lở, vỡ đê, gây lụt nhiều năm trong lịch sử. Để hạn chế tai nạn này, Thanh Liêm đã quy hoạch vùng phân lũ ở bên hữu ngạn sông, vùng giáp dãy núi đá vôi.
Nằm trên toạ độ địa lý 20o,30’ vĩ độ Bắc, 106o,02’ kinh Đông, huyện Bình Lục ở phía đông nam tỉnh Hà Nam. Phía Bắc giáp 2 huyện Duy Tiên và Lý Nhân; phía Nam giáp 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định; phía Đông giáp huyện Lý Nhân; phía Tây giáp huyện Thanh Liêm.
Theo Niên giám thống kê năm 2003: Diện tích tự nhiên 155,5 km2. Dân số trung bình 157.624 người, mật độ dân số trung bình 1.014 người/km2; trong đó nam 78.286 người, nữ 79.388 người; phân bố theo khu vực: thành thị 5.442 người, nông thôn 152.182 người.
Đất đai thuộc vùng chiêm trũng, từ xa xưa được coi là “cái rốn nước” của đồng bằng Bắc Bộ. Đại bộ phận diện tích ở cốt rất thấp, có nơi chỉ cao 0,3m so với mặt biển nên bị ngập úng triền miên, màu đất đen hoặc nâu nhạt, thuộc loại chua, nghèo lân. Song ngày nay đã được cải tạo ruộng đồng, làm nương máng thuỷ lợi, củng cố đê điều nên đã khắc phục được tình trạng ngập úng. Ngoài sông Châu bao bọc còn có nhiều sông nhỏ như Tắc Giang, Ninh Giang, sông Cầu Sắt, Bình Điền, Vĩnh Tứ, khe Bình Lục…chia Bình Lục ra thành nhiều ô, giúp cho việc giao lưu thuận tiện, từng là những con sông giao thông đường thuỷ huyết mạch từ Thăng Long về Thiên Trường thời Trần.
Về đường bộ: có quốc lộ 21 chạy ngang qua huyện, nối với thị xã Phủ Lý và đường quốc lộ 1A ở phía Tây. Các tỉnh lộ 62, 64, 56 và hệ thống đê điều tạo nên mạng lưới đường giao thông tới tất cả các xã trong huyện. Ngoài ra còn có đường sắt Bắc Nam chạy qua trung tâm huyện cũng tạo cho Bình Lục những thuận lợi nhất định.
Khí hậu thuỷ văn của Bình lục mang đặc điểm vùng nhiệt đới gió mùa, mùa hạ nóng ẩm nhiều mưa bão, mùa đông khô ráo, nửa đầu, nửa sau ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình năm 23oC, độ ẩm không khí 84%, lượng mưa hàng năm 1700 - 1850mm, phần lớn tập trung vào mùa hạ.
Thị xã Duy Tiên nằm ở chính giữa phía Bắc tỉnh Hà Nam. Vị trí địa lý ở vào khoảng 20o,38’vĩ Bắc, 105o,75’ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tây; phía Đông giáp thị xã Hưng Yên và huyện Lý Nhân, phía Nam giáp thị xã Phủ Lý và huyện Bình Lục, phía Tây giáp huyện Kim Bảng.
Theo Niên giám thống kê năm 2003: Diện tích tự nhiên 135,0 km2. Dân số trung bình 130.927 người, mật độ dân số trung bình 970 người/km2; trong đó nam 63.609 người, nữ 67.363 người; phân bố theo khu vực: thành thị 9.238 người, nông thôn 121.734 người.
Toàn bộ đất tự nhiên nằm trong vùng chiêm trũng, có đất phù sa bồi trên hữu ngạn sông Hồng màu mỡ; vùng đất không được bồi trung tính ít chau ven sông Châu, sông Nhuệ; còn lại phần lớn là đất phù sa có glây chua, ở địa hình thấp, ngập nước thường xuyên, có nơi cốt đất 1,8m. Phía Nam huyện có 2 ngọn núi, cách nhau 1,5km là Đọi Sơn và Điệp Sơn như một quả đồi giữa đồng sâu.
Khí hậu thuỷ văn của Duy Tiên mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới ,gió mùa có một mùa đông lạnh giá, đầu mùa tương đối kho, cuối mùa đông lại ẩm ướt, mùa hạ nóng ẩm nhiều mưa bão. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC. Tháng thấp nhất là tháng giêng, nhiệt độ trung bình khoảng 15,1oC. Tháng cao nhất là tháng 6, khoảng trung bình 29oC. Độ ẩm không khí 84%. Số giờ nắng trung bình mỗi năm từ 1.100 đến 1.200 giờ. Lượng mưa từ 1.700 đến 2000mm, phân bố không đều, tập trung 70% vào mùa hạ, từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, ít mưa, khô lạnh. Thêm vào đó là các hiện tượng thời tiết khác thường: dông, bão, mưa phùn, sương giá, gió bấc.
Lý Nhân nằm ở phía Đông tỉnh tỉnh Hà Nam, trong khoảng toạ độ 25o,35’ vĩ Bắc, 106o,05’ độ kinh Đông. Phía Nam giáp tỉnh Nam Định và huyện Bình Lục, phía Tây giáp hai huyện Bình Lục và Duy Tiên. Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ nên địa hình huyện Lý Nhân dạng lòng chảo nghiêng dần về phía Đông Nam.
Theo Niên giám thống kê năm 2003: Diện tích tự nhiên 167,1km2. Dân số trung bình 188.843 người, mật độ dân số trung bình 1.130 người/km2; trong đó nam 90.725 người, nữ 98.118 người; phân bố theo khu vực: thành thị 6.609 người, nông thôn 182.234 người.
Lý Nhân có 2 con sông bao quanh huyện là sông Hồng và sông Châu, có tổng chiều dài khoảng 78km, với diện tích lưu vực khoảng 1.084ha. Sông Hồng hàng năm bồi đắp phù sa cho vùng bãi ngoài đê bối và cho vùng lúa qua hệ thống trạm bơm tưới từ sông Hồng. Sông Châu là một nhánh của sông Hồng làm nhiệm vụ tới cho đồng ruộng và tiêu nước cho cả hai huyện bạn Bình Lục, Duy Tiên trong mùa mưa úng. Ngoài ra còn có sông Long Xuyên như con kênh tiêu chính cho toàn bộ vùng trũng của huyện.
Đất đai tương đối đồng đều, hình thành ba vùng sinh thái khác nhau: vùng bãi đất ngoài đê sông Hồng và bối sông Châu; vùng đồng chiêm trũng (chiếm 2/3 diện tích); vùng đất màu và cây công nghiệp. Vùng đồng chiêm trũng do cốt đất thấp, độ PH cao, độ phì nghèo, đất kém màu mỡ thường chỉ cấy được một vụ chiêm là chính, vụ mùa chỉ làm được một phần ở chân ruộng cao, còn phổ biến trồng ngô, khoai.
Khí hậu huyện Lý Nhân nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, thuộc tiểu vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, gió mùa Đông Nam. Lượng mưa trung bình hàng năm gần 2000mm, năm mưa nhiều nhất đến 2.400mm, năm mưa ít nhất 1200mm, được chia làm 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa chiếm 80%, có năm 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 23,5oC - 24oC. Mùa hè nhiệt độ trung bình 27oC. Nóng nhất là tháng 6,7, có khi lên tới 36oC-38oC. Mùa đông nhiệt độ trung bình 18,9oC. Tháng giêng, hai là lạnh nhất, có năm thấp tới 6oC-8oC. Nắng cả năm có tổng số trung bình 1.276 giờ, phụ thuộc theo mùa. Độ ẩm giữa các tháng chênh lệch nhau không lớn, giữa tháng khô nhất và tháng ẩm nhất chỉ chênh nhau 12%.
Đất đai màu mỡ, có phù sa sông Hồng bồi đắp, có thể sản xuất 2-3 vụ/năm, nguồn nước dồi dào.
Đường bộ trong huyện có đường 62, 63 chạy qua. Ngoài ra đê sông Hồng dài trên 40m, các đê bối sông Hồng, sông Châu cũng là đường giao thông vòng quanh huyện.
Huyện Kim Bảng nằm ở phía Tây tỉnh Hà Nam, vị trí địa lý vào khoảng 20o,35’ vĩ độ Bắc; 105o,60’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, phía Đông giáp với huyện Duy Tiên và thị xã Phủ Lý, phía Nam giáp với huyện Thanh Liêm và huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.
Theo Niên giám thống kê năm 2003: Diện tích tự nhiên 184,9 km2. Dân số trung bình 128.940 người, mật độ dân số trung bình 697 người/km2; trong đó nam 60.731 người, nữ 68.209 người; phân bố theo khu vực: thành thị 5.210 người, nông thôn 123.730 người. Điểm dài nhất 18,7 km, điểm rộng nhất 14,2 km nằm trong khu vực châu thổ Sông Hồng, nhưng địa hình huyện Kim Bảng rất đa dạng, bao gồm cả vùng đồi núi, vùng nửa đồi núi và vùng đồng chiêm trũng. Núi rừng hình thành một vòng cung như bức trường thành bao toàn bộ phía Tây và Tây Nam huyện, chạy dọc phía hữu ngạn sông Đáy. Hệ thống đường bộ: có đường 21, 22, 60 chạy qua.
Thuỷ văn trong vùng mang đặc điểm chung của khu vực đồng bằng Sông Hồng: chủ yếu là chế độ nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng riêng là 16oC. Mùa hạ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7 là 29oC. Lượng mưa trung bình 1800-2000mm/năm, song phân bố không đều, tập trung 85% từ tháng 4 đến tháng 10, chỉ có 15% vào mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.